Saturday 25 April 2015

Người anh hùng, qủa mìn 50kg và đoàn tàu quân sự bị “bẻ” gãy đôi (Lê Thành Vinh - Quân Đội Nhân Dân)

QĐND - Thứ bảy, 09/04/2011 | 21:24 GMT+7
QĐND Online - Cách đây đã 57 năm, ngày 31-1-1954, tại khu vực ga Phạm Xá (huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương), một đoàn tàu quân sự chở lính Pháp cùng nhiều vũ khí đạn dược bị phá tan tành bởi khối thuốc nổ 50kg. Người nhấn nút trái phá ấy là ông Nguyễn Đình Viện ở thôn Phạm Xá, xã Tuấn Hưng, huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương…
Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ, đơn sơ là ông cụ dáng quắc thước, tóc bạc trắng, giọng sang sảng. Mặc dù hơn nửa thế kỷ đã trôi qua, song ký ức về những ngày đánh trận vẫn còn vẹn nguyên trong ông – Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Đình Viện.
Ông Nguyễn Đình Viện sinh năm 1926, tham gia đội tự vệ của xã tháng 8-1945 và được kết nạp Đảng năm 1948. Năm 1950 ông nhập ngũ vào đơn vị bộ đội địa phương huyện Kim Thành.
Ông Viện nhớ lại:
- Lúc ấy ta chủ trương đẩy mạnh các hoạt động chống phá, phục kích, đánh tiêu hao sinh lực địch tại các địa phương. Sau thời gian huấn luyện, lực lượng của đơn vị được chia thành nhiều tổ, về hoạt động ở các xã của huyện Kim Thành.
Nhiệm vụ của ông Viện và đồng đội lúc bấy giờ là phối hợp với du kích, vận động nhân dân chống nộp thuế, phá huỷ giao thông, phương tiện chiến tranh và phục kích tiêu diệt địch. Sự xuất hiện của bộ đội ta khi đó đã làm địch hoang mang, mất ăn, mất ngủ, nhưng chúng vẫn ráo riết tuần tra, nghe ngóng. Ban ngày, để đối phó địch kiểm soát, các chiến sỹ phải nằm hầm, đến đêm lại ra hoạt động. Tuy bị địch truy tìm gắt gao nhưng nhờ được nhân dân che giấu, nuôi dưỡng nên lực lượng của ta vẫn được bảo toàn.
Ông Nguyễn Đình Viện trò chuyện cùng tác giả.
Trong nhiều trận đánh lớn nhỏ trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, ông Viện nhớ nhất trận diệt quân Pháp tại ga Phạm Xá, ngày 31-1-1954. Theo tin mật báo của ta, địch sẽ có đợt chuyển quân lớn từ Hải Phòng về Hà Nội bằng tàu hỏa, tiếp viện cho cứ điểm Điện Biên Phủ. Tỉnh đội Hải Dương chỉ thị cho huyện đội Kim Thành tổ chức lực lượng dùng mìn cỡ lớn phục kích đoàn tàu quân sự này. Huyện đội Kim Thành giao cho ông Nguyễn Văn Thoà (đã mất năm 1992, năm 1999 được Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân) và Nguyễn Đình Viện thực hiện nhiệm vụ trên bởi hai ông là những người thông thạo địa hình và từng có kinh nghiệm đánh bộc phá trong một số trận công đồn.
Ông Viện kể:
- Nhận nhiệm vụ trên giao, cả tháng trời, hàng đêm chúng tôi bò ra đường tàu nghiên cứu địa hình, quy luật tuần tra canh gác của địch…rồi chọn được vị trí đặt mìn cách ga Phạm Xá khoảng 200m về phía tây.
Hầm ẩn nấp được ông Viện và đồng đội đào tại cánh đồng thôn Xuân Mang, đủ chỗ cho hai người ngồi và một giá kê bộ nguồn điện gồm 150 quả pin (mỗi quả 1,5V). Cửa hầm cách nơi đặt mìn chừng 300m. Từ đó có thể quan sát, phát hiện địch từ xa, xác định được chính xác thời cơ “điểm hoả”.
Ông Viện được cử sang huyện Thanh Hà (Hải Dương) nhận mìn. Quả mìn được đúc hình ống thon dài, trọng lượng 50 kg, đặt lọt giữa khe hai thanh tà vẹt đường tàu.
- Khó khăn nhất là công đoạn đào hố chôn mìn, bởi hàng đêm cứ 3 tiếng địch lại đi tuần, 6 tiếng một lần xe goòng lại chở chúng đi kiểm tra đường sắt, ông Viện tâm sự.
Sau khi tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, các ông lợi dụng thời điểm giữa hai đợt lính đi tuần để tiến hành đào hố, với dụng cụ là hai chiếc răng bừa mài sắc, có tra cán. Sau gần 2 giờ, chiếc hố được đào xong. Để đất không bị rơi vãi, dễ làm lộ bí mật, các ông trải chiếc chăn ra cạnh đường tàu, để thúng đựng đất lên trên. Sau đó đất được đổ ra tận cánh đồng. Sau khi mìn được đặt vào hố và nguỵ trang cẩn thận, ông Viện và ông Thòa nối mìn với bộ nguồn tại hầm trú ẩn bằng dây điện. Toàn bộ số dây điện đó cũng được chôn kín dưới đất.
Nhấp ngụm trà, ông Viện kể tiếp:
- Mọi công tác chuẩn bị đã hoàn tất, anh em chúng tôi đều sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ, nhưng chờ tới 3 ngày mà không có chuyến tàu nào qua. Sốt ruột quá nên chúng tôi xin được nổ mìn phá đường tàu, nhưng cấp trên yêu cầu kiên trì chờ đợi.
Gần trưa ngày 31-1-1954, nghe tiếng “sình sịch” từ xa vọng lại, hai ông nhô đầu lên miệng hầm quan sát, thấy hai đoàn tàu nối đuôi nhau chạy theo hướng Hải Phòng- Hà Nội. Bọn địch cho đoàn tàu dân sự đi trước, tàu chở lính Pháp và vũ khí đi sau. Chờ đến khi phần giữa của đoàn tàu quân sự ì ạch vào đúng “tâm nổ”, ông Thoà hô nhỏ nhưng đanh gọn: “Chuẩn bị….nổ!". Ngay lập tức, ông Viện chập mạnh, nối thông nguồn điện. Tức thì một tiếng nổ lớn làm mặt đất rung chuyển, đoàn tàu bị hất tung lên gẫy làm đôi rơi xuống tan tành. Bọn địch hoảng loạn kêu la ầm ĩ.
Đoàn tàu địch bị trúng mìn tại ga Phạm Xá ngày 31-1-1954. Ảnh tư liệu
Ông Viện bồi hồi:
- Chúng tôi bật nắp hầm rút lui, nhưng vì hầm chật lại ngâm nước quá lâu nên chân tê cứng, không chạy được mà phải bò. Bọn địch phát hiện thấy liền đuổi theo. Đồng chí Thoà bình tĩnh dùng tiểu liên bắn trúng tên đi đầu làm hắn ngã lộn cổ, khiến cả bọn sợ hãi không dám đuổi nữa. Được sự yểm hộ của đồng đội, chúng tôi rút về căn cứ an toàn. Hôm sau cấp trên thông báo, trận đó chúng tôi đã tiêu diệt và làm bị thương 1.017 tên lính Âu- Phi; phá huỷ nhiều vũ khí, quân trang, phương tiện chiến tranh khác của địch.
Hoà bình lập lại, ông Viện xin phục viên, rồi được tín nhiệm bầu làm chủ nhiệm hợp tác xã nông nghiệp. Những năm không quân Mỹ leo thang bắn phá miền Bắc, ông là xã đội trưởng, phụ trách tổ súng bộ binh bắn máy bay địch, rồi phụ trách trung đội dân quân đào đắp công sự, vận chuyển đạn dược, thương binh và phục vụ bộ đội phòng không chiến đấu bảo vệ cầu Lai Vu. Năm 1967 ông chuyển sang công tác trong ngành thương nghiệp huyện Kim Thành, đến năm 1979 về nghỉ hưu.
Với những thành tích xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến, ông Nguyễn Đình Viện được Nhà nước tặng Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Nhì, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất, Huân chương Chiến công hạng Ba, Chiến sỹ thi đua toàn quân và nhiều bằng, giấy khen các loại… Đặc biệt, năm 2010, ông được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
Theo quy luật của tạo hóa, thời gian rồi sẽ lùi xa, nhưng chúng tôi tin, trận đánh ngày 31-1-1954 của ông Nguyễn Đình Viện và người đồng đội năm xưa sẽ còn lưu truyền mãi.
Bài và ảnh: Lê Thành Vinh

No comments:

Post a Comment