Showing posts with label cây cỏ. Show all posts
Showing posts with label cây cỏ. Show all posts

Wednesday 13 June 2018

Hoa mộc (Đông A)

Hoa mộc

Photobucket

Trời sinh vật vuỗn bằng người
Nếu được thơm tho thiếu tốt tươi
Ắt có hay đòi thửa phận
Chẳng yêu thì chớ nữa chi cười
Nguyễn Trãi

Hoa mộc (hay còn gọi là mộc tê) có tên khoa học là Osmanthus fragrans. Hoa mộc ở Việt Nam thường có màu ngà (ảnh trên), trong khi đấy ở nước ngoài lại rất trắng (ảnh dưới). Nhà tôi có hai cây hoa mộc trồng trong chậu, còi cọc nhưng năm nào cũng ra hoa. Khác với hoa mộc ở nước ngoài, hương thoảng tận mũi, tôi phải nhắm mắt lại mới cảm được hương hoa mộc nhà tôi. Hương hoa mộc rất nhẹ nhàng, thơm dìu dịu. Đôi khi dịch thơ Đường, tôi dịch mộc tê thành cây quế, một cách dịch rất sai, vì mộc tê và quế thuộc các họ khác nhau. Người Trung Quốc gọi hoa mộc là quế hoa, nhưng không phải là hoa của cây quế chi Cinnamomum. Thành ra quế hoa dịch ra tiếng Việt phải là hoa mộc, chứ không phải là hoa quế. 

Photobucket

Sunday 10 June 2018

Hoa ngọc trâm (Đông A)

Hoa ngọc trâm

Photobucket

Anh tặng cho em hoa ngọc trâm
Hoa như ánh sáng, ngọc như mầm
Như cài trên tóc hoa trâm ngọc
Anh tặng cho em hoa ngọc trâm
Xuân Diệu

Người Việt chúng ta vẫn gọi hoa này là hoa ngọc trâm. Nhưng tôi cho rằng đó là một nhầm lẫn. Hoa có tên khoa học là Eucharis grandiflora. Hoa ngọc trâm thực sự phải là hoa thuộc chi Hosta. Phải giàu tưởng tượng lắm mới hình dung được bông hoa Eucharis grandiflora giống như một cái trâm cài đầu, trong khi đấy hoa Hosta plantaginea dễ thấy hình dạng của một cái trâm. Người Trung Quốc gọi hoa Hosta plantaginea là hoa ngọc trâm, trong khi đấy gọi hoa Eucharis grandiflora là hoa bách hợp hay hoa bạch hạc. Người Nhật cũng gọi hoa Eucharis grandiflora là hoa bách hợp. Tất nhiên tên gọi hoa của Trung Quốc, Nhật Bản không phải là chuẩn mực để người Viêt phải gọi theo, nhưng các tên gọi đều có nguồn gốc của chúng. Thông thường hoa bách hợp tương đương trong tiếng Việt là hoa huệ hay hoa loa kèn. Như vậy có thể gọi hoa là hoa huệ Amazon để lưu ký nguồn gốc bản địa của hoa hay hoa huệ ngọc trâm để giữ lại chút cố hữu của dân gian. Nhưng thói quen của dân gian là một điều rất khó thay đổi.

Hoa ngọc trâm Trung Quốc (Đông A)

Hoa ngọc trâm (Trung Quốc)

Photobucket

Yến bãi Dao Trì A Mẫu gia 
Nộn quỳnh phi thượng tử vân xa 
Ngọc trâm lạc địa vô nhân thập 
Hóa tác Giang Nam đệ nhất hoa
Hoàng Đình Kiên 

Tàn tiệc Tây Vương Mẫu tại nhà
Quỳnh thơ xe tía cưỡi mây xa
Ngọc trâm rớt đất không người nhặt
Hóa tại Giang Nam đệ nhất hoa

Đây là hoa ngọc trâm trong văn hóa của người Trung Quốc. Hoa có tên khoa học là Hosta plantaginea, hoàn toàn khác hoa ngọc trâm của người Việt. Hoa ngọc trâm của Trung Quốc có một số truyền thuyết về nguồn gốc của hoa. Một trong những truyền thuyết đó là tiên nữ của Tây Vương Mẫu sau một buổi yến tiệc làm rớt cây trâm ngọc cài đầu xuống địa giới và hóa thành hoa ngọc trâm. Hoa ngọc trâm của Việt Nam không thấy có truyền thuyết nào. Tôi thấy hoa ngọc trâm của Trung Quốc giống cây trâm cài đầu hơn hoa ngọc trâm của Việt Nam, bởi vì đài hoa ngọc trâm Việt Nam cong veo, không thẳng. Hoa ngọc trâm của Trung Quốc có hương thơm, còn hoa ngọc trâm của Việt Nam lại hắc.

宴罷瑤池阿母家
嫩瓊飛上紫雲車
玉簪落地無人拾
化作江南第一花
黃庭堅

Hoa bát thủ (Đông A)

Hoa bát thủ

Photobucket

立つ人に因りて八手の花もよし
Tatsu hito ni yorite yatsude no hana mo yoshi 
Kyoshi

Tùy theo người đứng
hoa bát thủ vẫn đẹp

Lần đầu tiên tôi nhìn thấy hoa bát thủ ở Lục nghĩa viên. Lúc đấy chưa biết hoa tên là gì. Sau sang Ngự uyển mới biết hoa có tên là bát thủ. Cây hoa có tên khoa học là Fatsia japonica, một loài cây bản địa của Nhật Bản. Sở dĩ cây hoa có tên là "bát thủ" được cho là do lá của cây tạo thành nhiều múi như những ngón tay. Nhưng thật sự số múi của lá cây luôn là số lẻ, 7 hay 9 múi. Có lẽ "bát" không phải chỉ số 8, mà mang ý nghĩa như "kép" hay "nhiều", kiểu giống như "bát trùng" có nghĩa là cánh kép.

Cây bát thủ thường được dịch ra tiếng Việt rất sai thành cây dây leo. Ví dụ bản dịch tiếng Việt của Ngô Quý Giang tiểu thuyết Tiếng rền của núi đã dịch thành: "Ngày chủ nhật ở nhà Singo dùng cưa cắt bụi dây leo quấn chặt lấy gốc cây anh đào ngoài vườn". Cây bát thủ đâu phải là loại dây leo. Đó là một loại cây bụi. Bản dịch tiếng Anh của Seidensticker là: "On Sunday morning, Shingo sawed down the yatsude at the foot of the cherry".

Lan chu đinh (Đông A)

Lan chu đinh

Photobucket

蘭の香や蝶の翅に薫物す
Ran no ka ya cho no tsubasa ni takimono su
Basho

Hương lan
nơi cánh bướm
ngát thơm

Lan chu đinh là một loại địa lan, có tên khoa học là Spathoglottis plicata. Loài lan này tương đối dễ trồng, không phải chăm bón cầu kỳ. Không nhầm lẫn lan chu đinh với chu lan (hay châu lan) mà Ngô Thì Nhậm từng nói tới trong bài đề tựa cho tập Hoa trình học bộ: "Ta thường nghĩ những người thường có bốn điều không thể biết, đó là chơi hoa châu lan không biết thơm, uống trà long tỉnh không biết ngon, nghe khúc điệu cung đình không biết vui, đọc thơ Cầm sắt không biết hay. Bởi vì bốn cái ấy thanh cao quá, không thích hợp với người thường vậy. Tuy thế, đó là nói chưa biết mà thôi, còn khi đã biết rồi, thì ở dưới trời này, những cái được gọi là hoa, là trà, là khúc, là thơ, có cái gì lại cao siêu tuyệt diệu hơn được những cái ấy..."  Châu lan chính là loài hoa sói, có tên khoa học là Chloranthus spicatus.

Nhà tôi có một chậu lan chu đinh, thường để mặc không chăm bón và vẫn ra hoa. Tôi đi vắng về nhà chậu lan đã không còn. Hỏi người nhà mới biết chậu lan đã chết. Giở những tập ảnh tôi chụp vẫn còn thấy những bông hoa của nó.


Thử tình khả đãi thành truy ức
Chỉ thị đương thời dĩ võng nhiên
Lý Thương Ẩn

Mai đỏ (Đông A)

Mai đỏ

Photobucket

紅梅や見ぬ恋作る玉簾
koobai ya minu koi tsukuru tamasudare
Basho

Mai đỏ
không nhìn thấy tình yêu tác thành
rèm ngọc

Rèm ngọc là hình ảnh của người con gái khuê các. Mai đỏ là vẻ đẹp. Bài haiku thể hiện có một người con gái khuê các xinh đẹp làm xiêu lòng người nhưng lại không nhìn thấy được.

Cây hoa trong ảnh không phải là hoa mai chính tông. Những cái tên như mai đỏ, nhất chi mai là tên thậm xưng, kiểu như hoa mai vàng. Cây hoa có tên khoa học là Jatropha integerrima thuộc chi dầu mè.

Sunday 27 May 2018

Trúc mây (Đông A)

Trúc mây

Photobucket

ひとりひっそり竹の子竹になる 
hitori hissori takenoko take ni naru
Santoka

Đơn độc và lặng lẽ
măng trúc
trở thành trúc

Cây trúc mây có tên khoa học là Rhapis excelsa. Tuy gọi là trúc nhưng cây lại không chung họ với các  tre trúc, mà lại cùng họ với cau, cọ, mây..., bởi vậy mà hoa trúc mây giống hoa cau, cọ hơn là giống hoa tre trúc. Người Trung Quốc gọi cây là "tông trúc" ("tông" có nghĩa là cọ), đôi khi còn gọi là "Quan Âm trúc". Người Nhật cũng gọi là "Quan Âm trúc". Theo một nghiên cứu khoa học, cây trúc mây có tác dụng lọc ammonia tốt nhất và lọc formaldehyde chỉ sau thiết mộc lan. Nhà tôi buồng tắm nhỏ nên chưa thử nghiệm đem một chậu cây trúc mây vào xem không khí có trong lành và tinh khiết hơn không.

Saturday 10 June 2017

Xích đồng (Đông A)

Xích đồng

Photobucket

桐の花咲くや都の古屋敷
Kiri no hana saku ya miyako no furuyashiki
Shiki

Hoa đồng nở
ngôi nhà cổ kinh đô
bày ra

Cây xích đồng (hay mò đỏ) có tên khoa học là Clerodendrum japonicum. Tên gọi xích đồng khá thống nhất với tên gọi trinh đồng của người Trung Quốc và phi đồng (higiri) của người Nhật Bản [xích, trinh, phi đều có nghĩa là màu đỏ]. Tuy cũng gọi là "đồng" nhưng cây không có liên quan với cây ngô đồng mùa thu lá rụng. Bài haiku của Shiki nói về cây ngô đồng. 

Trúc Nhật (Đông A)

Trúc Nhật

Photobucket

稲妻にこぼるる音や竹の露
inazuma ni koboruru ota ya take no tsuyu
Buson

Trong tia chớp
tiếng rơi khắp
những giọt sương lá trúc

Tia chớp lóe lên nhưng không nghe thấy tiếng sấm, mà nghe thấy tiếng những giọt nước rơi khắp trên cây trúc, nhìn ra thì lại là những giọt sương. Trong ánh chớp đấy, những giọt nước mưa trên lá trúc trông giống như những giọt sương, long lanh, tròn trịa, nhưng lại khác những giọt sương ở chỗ chúng tạo ra âm thanh, như một hệ quả của tia chớp.

Cây trúc Nhật có tên khoa học là Dracaena surculosa. Cái tên trúc Nhật là một cách gọi tùy tiện của dân gian, kiểu cũng giống như trúc Pháp, lan Ý. Những cây này hoàn toàn không có nguồn gốc riêng biệt từ Nhật, Pháp hay Ý. Tuy gọi là trúc, chi Dracaena không có liên quan gì tới tre trúc. Trái lại, cây trúc Nhật khá gần gũi với thiết mộc lan hay cây phất lộc (phát lộc, Dracaena sanderiana). Người Việt còn gọi cây trúc Nhật là trúc Quan Âm, trong khi đấy người Trung Quốc, Nhật Bản gọi cây trúc Quan Âm là cây trúc mây. Người Nhật gọi cây trúc Nhật là tinh thiên niên mộc, còn người Trung Quốc gọi là du điểm mộc, cho thấy cả người Nhật lẫn người Trung Quốc đều không coi cây trúc Nhật thuộc loại tre trúc. Vì cây trúc Nhật thuộc chi Dracaena nên hoa của nó hoàn toàn không giống hoa tre trúc cũng như hoa cau, cọ. Chúng nghiêng về phía thiết mộc lan

Tử đằng (Đông A)

Tử đằng

Photobucket

Hoa tử đằng này có tên khoa học là wisteria floribunda. Hoa này còn gọi là tử đằng Nhật để phân biệt với hoa tử đằng Trung quốc cùng chi (wisteria sinensis). Tiếng Đức gọi hoa tử đằng là Blauregen, mưa tím, bởi vì hoa rủ xuống như làn mưa màu tím chảy xuống từ mái hiên. Cái tên vừa đẹp lại vừa man mác buồn. Màu tím đã man mác buồn lại thêm mưa. Cứ theo kiểu Việt Nam loại hoa này dễ bị gọi là lan hay phong lan. Nhiều khi tôi không thể nào hiểu được cách gọi tên hoa của người Việt. [Bổ sung: tiếng Việt gọi hoa này là dây sắn tía]. Loại hoa tím gọi là tử đằng, loại hoa trắng gọi là ngân đằng. Quảng quần phương phổ chép rất nhiều loại cây đằng. Đằng là tên chung chỉ loại cây có tua rủ xuống.

Lý Bạch có bài thơ Tử đằng thụ:

Tử đằng quải vân mộc
Hoa mạn nghi dương xuân
Mật diệp ẩn ca điểu
Hương phong lưu mỹ nhân

Tôi dịch bài Cây tử đằng này thành thơ:

Tử đằng treo chót vót
Lớp lớp tưởng đương xuân
Cánh rậm che chim hót
Hương bay níu mỹ nhân

Tôi bỗng nhận ra ở Việt Nam rất ít hoa mọc trong tự nhiên, hay chính xác hơn, ở thành phố thấy rất ít loại hoa nở ở những nơi công cộng. Có thể rừng Việt Nam có nhiều hoa, nhưng tôi lại chưa bao giờ vào rừng ở Việt Nam. Vào rừng ở Việt Nam có lẽ không an toàn vì dễ có những thứ vắt, rắn, rết. Người Việt chơi hoa không được tự nhiên. Chẳng hạn đào, quất cứ phải thiến đào, đảo quất để ép cây nở hoa hay ra quả vào một khoảng thời gian nhất định. Tưởng là hay, nhưng thực ra rất dở vì không thể nào tạo ra được một phố đào, phố quất. Dịp Tết tôi ra bãi Phúc Xá xem hoa đào, nhưng quả thật không thể nào đẹp bằng một rừng đào hay một bãi đào vì những cây đào ở Phúc Xá đều con con, mang tính bài trí trong nhà hơn là ở ngoài tự nhiên. Cứ tưởng Việt Nam có nhiều loại hoa đào, nhưng thực ra Việt Nam có rất ít loại hoa đào nếu so với các nước khác. Hay là xuân hết lại viết về đào.
Photobucket

Hoa Ưu Đàm (Blog Đông A)

Hoa ưu đàm

Photobucket

優曇華の花待ち得たる心地して   深山桜に目こそ移らね
udonge no  hana machi-etaru kokochi shite 
mi-yama-zakura ni me koso utsurane

In thirty hundreds of years it blooms but once
My eyes have seen it, and spurn these mountain cherries
Tale of Genji

Hoa ưu đàm hay ưu đàm bát la là tên phiên âm kiểu Hán-Việt từ tiếng Pali hay Sanskrit udumbara. Trong tiếng Pali hay Sanskrit udumbara là cây Ficus racemosa, tức là cây sung trong tiếng Việt. Thế nhưng về hoa ưu đàm có nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí mang tính huyền bí. Tại sao? Nguyên do các kinh điển Phật giáo đề cập tới loài cây này, vừa theo nghĩa đen, vừa theo nghĩa bóng với những ẩn dụ mang tính tôn giáo. Nhìn bên ngoài, cây sung vốn được coi là loài cây không có hoa, chỉ có quả. Nhưng về mặt khoa học, điều đó không đúng. Cây sung có hoa, cả hoa đực lẫn hoa cái, nhưng hoa phát triển cùng với hạt trong cùng một khối mà chúng ta gọi là quả sung. Thực chất bên trong quả sung chính là hoa sung. Nhưng dân gian không biết điều đó, cho rằng cây sung không có hoa hoặc rất khó ra hoa. Vì vậy mà cây sung còn có tên gọi là "vô hoa quả". Chính vì đặc tính không có hoa như vậy mà cây sung được ẩn dụ hóa thành một loài cây rất hiếm khi ra hoa, và do vậy cây sung ra hoa là một sự kiện hy hữu, được liên kết với những sự kiện tôn giáo mang tính hy hữu đặc biệt.

Hoa ưu đàm trong các kinh tạng của Phật giáo Nguyên thủy bằng tiếng Pali chỉ hàm nghĩa ẩn dụ như trên, chưa có các đặc điểm huyền bí như sau này. Udumbara trong kinh tạng tiếng Pali khi được dịch ra các tiếng khác, đều dịch là cây sung, kể cả tiếng Việt. Ví dụ như trong Kinh tập của Tiểu Bộ kinh, phần phẩm Rắnkinh Rắn, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch như sau:

"Ai trong các sanh hữu,
Không tìm thấy lõi cây,
Như kẻ đi hái hoa,
Trên cây sung không hoa.
Tỷ-kheo ấy từ bỏ,
Bờ này và bờ kia,
Như loài rắn thoát bỏ
Da rắn cũ già xưa."

Cây sung không hoa chính là udumbara, tức là ưu đàm bát la. Cũng như vậy trong Thiên Đại phẩmcủa Tương Ưng Bộ kinh, phần Tương Ưng Giác Chi, Hòa thượng Thích Minh Châu dịch rất rõ udumbara là cây sung:

"Và này các Tỷ-kheo, những cây lớn nào sanh từ hột giống nhỏ, có thân cây lớn, lớn lên bao trùm các cây khác, các cây ấy bị bao trùm, bị phá hủy, bị hư hại, ngã xuống, nằm rạp xuống? Ví như cây Bồ-đề, cây bàng, cây sanh (pilakka), cây sung (udumbara), cây bách hướng (kacchaka), cây kapitthaka; những cây lớn này, này các Tỷ-kheo, sanh từ hột giống nhỏ, có thân cây lớn, lớn lên bao trùm các cây khác. Các cây ấy bị bao trùm, bị phá hủy, bị hư hại, ngã xuống, nằm rạp xuống."

Thế nhưng ngay ở kinh tạng tiếng Pali, udumbara không chỉ hàm nghĩa là một loài cây hiếm khi ra hoa, mà còn hàm nghĩa là loài cây giác ngộ tức là một loài cây bồ đề, thành ra udumbara lại có thể được hiểu thành cây bồ đề. Nguyên do Thế tôn Konagamana giác ngộ dưới cây udumbara. Thực chất, cứ hiểu Thế tôn Konagamana giác ngộ dưới gốc cây sung sẽ chẳng có vấn đề gì, nhưng tôn giáo luôn muốn thần thánh hóa, không muốn gọi là cây sung, mà muốn gọi là cây giác ngộ, thành ra chuyện trở nên rắm rối. Kinh Đại Bổn trong Trường Bộ kinh có đoạn được Hòa thượng Thích Minh Châu dịch như sau:

"Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vipassì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pàtali (bà-bà-la). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Sikhì, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây pundarika (phân-đà-ly). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Vessabhù, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây sirĩsa (thi-lợi-sa). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Konàgamana, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây udumbara (ô-tam-bà-la). Này các Tỷ-kheo, Thế Tôn Kassapa, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, giác ngộ dưới gốc cây nigrodha (ni-câu-luật-đà). Này các Tỷ-kheo, nay Ta là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác giác ngộ dưới gốc cây assattha (bát-đa-la)."

Lưu ý trong trích đoạn trên Hòa thượng Thích Minh Châu không dịch udumbara là cây sung như đã dịch trong Tiểu Bộ kinh hay Tương Ưng Bộ kinh mà phiên âm thành ô-tam-bà-la. Chính sự thiếu nhất quán như vậy của những người theo đạo Phật dẫn tới sự rối rắm, không nhất quán về cách hiểu ưu đàm bát la hay ưu đàm hoa.

Về hoa ưu đàm các kinh tạng tiếng Pali viết còn đỡ rắc rối. Sang các kinh tạng tiếng Hán của Đại Thừa, hoa ưu đàm trở nên rắc rối hơn. Diệu Pháp Liên Hoa kinh liên kết hoa ưu đàm với sự ra đời của chư Phật:

"Chư Phật xuất thế
là sự khó có,
vì lẽ lâu xa
mới gặp một lần.
Mà dẫu chư Phật
đã xuất thế rồi,
nói về pháp này
là sự khó có.
Vô số thời kỳ
mới nghe pháp này,
nên sự nghe ấy
là sự khó có.
Và rồi những ai
nghe nổi pháp này,
thì người như vậy
là người khó có.
Như hoa ưu đàm
ai cũng ưa thích,
đến như chư thiên
cũng thấy hiếm có,
vì lẽ thỉnh thoảng
mới trổ một lần.
Những người nghe nổi
pháp như thế này,
nghe rồi hoan hỷ
ca tụng tán dương,
thì dẫu đến nỗi
chỉ phát một lời,
cũng đã hiến cúng
tam thế chư Phật.
Nên người như vậy
hết sức khó có,
khó có hơn cả
hoa thiêng ưu đàm."

Đoạn trích trên do Hòa thượng Thích Trí Quang dịch. Hòa thượng Thích Trí Quang còn dẫn giải:

"... chính trong phẩm 2, Phật nói Nhất thừa hiếm có như hoa ưu đàm. Ưu đàm là ưu đàm bát la (udumbara) mà nay có người nói tên khoa học là ficus glomerata. Ưu đàm là hoa thiêng quí hiếm hay là ficus glomerata thì tôi tồn nghi. Nhưng điều chắc chắn là ưu đàm không thể không liên hệ gì với hoa sen."

Ở đây có thể nhận thấy cách hiểu của Hòa thượng Thích Trí Quang. Hòa thượng nghi ngờ ưu đàm bát la không phải là cây sung, mà là một thứ cây linh thiêng gì đó có liên hệ với hoa sen. Lý do tôi nghĩ rằng Hòa thượng Thích Trí Quang đã cho rằng ưu đàm bát la nở khi chư Phật xuất hiện, do vậy nó phải là thứ hoa linh thiêng, và hơn nữa nó được nói tới trong Liên Hoa kinh, do vậy ắt phải có liên quan tới hoa sen. Nhưng nếu nhìn nhận nghĩa ẩn dụ của cây sung là một thứ cây rất hiếm khi ra hoa như trong kinh tạng Pali, và ẩn dụ hóa tiếp tính linh thiêng của nó bằng liên kết với sự xuất hiện của chư Phật cũng không có vấn đề gì. Như vậy có thể thấy từ Phật giáo Nguyên thủy tới Phật giáo Đại Thừa và các pháp môn, hoa ưu đàm đã trở nên rắc rối hơn nhiểu.

Song vấn đề không dừng lại ở đó. Từ Liên Hoa kinh, câu thành ngữ trong tiếng Hán "Đàm hoa nhất hiện" trở nên phổ biến. Nhưng ý nghĩa của thành ngữ này không còn giữ được nghĩa gốc như trongLiên Hoa kinhHán-Việt tự điển của Thiều Chửu giải thích: "Đàm hoa nhất hiện, ý nói bỗng thấy lại biến đi ngay, tục thường mượn dùng để tả sự mau sinh, mau diệt". Thiều Chửu là một nhà tu hành đạo Phật, ông không thể không biết Liên Hoa kinh, vậy tại sao ông chỉ giải thích ý nghĩa của "Đàm hoa nhất hiện" như vậy? Vấn đề nằm ở chỗ cách giải nghĩa của Thiều Chửu là cách hiểu chính thức trong tiếng Hán. Rắc rối giờ đây nằm ở chính tiếng Hán. Trong tiếng Hán đàm hoa chính là hoa quỳnh trong tiếng Việt Epiphyllum oxypetalum (hoa quỳnh trong tiếng Hán lại là một loài hoa khác, hoa Viburnum sargentii, thành ra nếu ai dịch từ tiếng Trung sang tiếng Việt quỳnh hoa là hoa quỳnh thì đấy không phải là hoa quỳnh trong cách hiểu của người Việt). Đàm hoa hay hoa quỳnh, chỉ nở một lần, tối nở, sớm tàn, thành ra có ý nghĩa "bỗng thấy lại biến đi ngay" của "đàm hoa nhất hiện". Ngay trong Quảng quần phương phổ cũng có hai loài hoa cùng mang tên ưu đàm hoa. Một ưu đàm hoa được giải thích là vô hoa quả, và một ưu đàm hoa là một loài hoa ở Vân Nam được mô tả sắc trắng, hương thơm, trông như hoa sen, có 12 cánh, có nguồn gốc từ Tây Vực. Loài cây đầu có lẽ là cây sung, và loài thứ hai có lẽ là cây quỳnh.

Với tôi hoa ưu đàm chỉ là cây sung, và ý nghĩa điển cố của nó chỉ là một loài hoa rất hiếm gặp. Tất cả những thứ khác được cho là hoa ưu đàm đều là không phải.
 

Thursday 12 September 2013

Chuyện Cây Cỏ và Địa Danh (Phạm Đình Lân - Cái Đình)



Bài Chuyện Cây Cỏ và Địa Danh tiếp nối những loạt bài về địa danh mang tên thảo mộc – cây giá và Rạch Giá (Giá Khê), Lavang (tiếng Hindi) là cây đinh hương hay Champa (Chiêm Thành) là hoa sứ (tiếng Hindi) – vì ở Việt Nam có rất nhiều địa danh mang tên cây cỏ, nhất là ở miền Nam. Trong bài nầy chúng tôi ghi lại một số địa danh ít được biết đến mang tên các loại thảo mộc cũng ít được biết đến hay trên đà tuyệt chủng.

Cái Nhum và cây nhum
Cây nhumCái Nhum là tên của một quận trong tỉnh Vĩnh Long dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. Hiện nay đó là thị xã huyện lỵ của huyện Mang Thít trong tỉnh Vĩnh Long. Cái Nhum nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 10' và dòng kinh tuyến 106 độ 30'. Huyện Mang Thít chỉ rộng 158 km2 với trên 100.000 dân nên Cái Nhum là một thành phố trù phú nhưng nhỏ hẹp và không đông dân theo cái nhìn của người sống ở các thành phố rộng lớn và đông dân ở Hoa Kỳ và các nước kỹ nghệ có tỷ lệ thị dân cao trên thế giới. Cái Nhum nằm cách tỉnh lỵ Vĩnh Long 17 km về phía đông nam. Kinh tế Cái Nhum dựa vào nông nghiệp và trái cây nhiệt đới tương tự như Cái Mơn, Bình Nhâm, Nhị Bình là những vùng có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao và là vùng có nhiều vườn cây ăn trái như sầu riêng, măng cụt, chôm chôm mà các giáo sĩ Thiên Chúa Giáo mang giống từ Penang về. Từ năm 1800 Dòng Mến Thánh Giá được thành lập tại Cái Nhum.
Địa danh Cái Nhum được đặt từ tên của cây nhum (Cái: rạch <arroyo>; Cái Nhum: cây nhum mọc dọc theo rạch).
Cây nhum mang tên khoa học Areca tigillaria hay Oncosperma tigillaria thuộc gia đình Arecaceae của cây cau, cây dừa. Cây cao nhất có thể đo được 25m. Cây phủ đầy tàu lá dài từ 2m đến 3m. Tàu lá giống như tàu cau, tàu dừa nhưng dầy đặc. Cây mọc theo các dòng nước, hà khẩu các sông. Hoa cái màu đỏ, hoa đực màu vàng. Trái tròn. Người Mã Lai gọi là Nipung. Dân hải đảo Thái Bình Dương gọi là Gendiwung. Cây nhum có nhiều liên hệ với dừa nước Nypa fruticans.  Cây có gỗ cứng dùng làm nhà. Lá dùng để lợp nhà hay phơi khô để nhúm lửa, gỗ tạp làm củi đốt hay làm dụng cụ săn và bắt cá. Cổ hủ cây nhum được ăn như cổ hủ cây dừa. Cây nhum còn được tìm thấy nhiều ở Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân và các hải đảo Thái Bình Dương. Nhưng nó tương đối xa lạ với người Việt Nam mặc dù ở Nam Bộ có thành phố Cái Nhum.

Xuyên Mộc và cây xoan mộc
Trước năm 1975 Xuyên Mộc nằm trong tỉnh Bình Tuy. Ngày nay Xuyên Mộc là một huyện của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đó là một huyện miền duyên hải nối liền với duyên hải tỉnh Bình Thuận. Năm 1954 là một trong ba vùng tập trung quân Việt Minh ở Nam Bộ (Xuyên Mộc, Cao Lãnh, Cà Mau) tập kết ra miền Bắc theo hiệp ước đình chiến ký ở Genève ngày 20-07-1954 giữa đại tá Delteil và Tạ Quang Bửu, thứ trưởng bộ Quốc Phòng của chánh phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong chiến khu. Huyện Xuyên Mộc rộng 642km2 với 12 xã. Huyện lỵ là Phước Bửu nằm gần Bình Châu, nơi có suối nước nóng. Xuyên Mộc có 132.000 dân. Kinh tế địa phương trước kia dựa vào ngư nghiệp. Ngày nay Xuyên Mộc trở thành khu du lịch quan trọng nhờ có bãi biển đẹp, suối nước nóng. Trong những năm gần đây Xuyên Mộc có đổ trường và nhiều khách sạn được xây lên để tiếp đón khách du lịch.
Cây xoan mộcĐịa danh Xuyên Mộc là tiếng âm trại của cây xoan mộc hay xương mộc. Tên khoa học của cây xoan mộc làToon sureni, Toona febrifuga, Cadrela sureni thuộc gia đình Meliaceae. Người Anh gọi cây xoan mộc hay xương mộc là Red Cedar (cây bá hương đỏ), Pháp gọi là Cèdre de Cochinchine (cây bá hương Nam Kỳ), Indonesia: suren, Thái Lan: surian, Mã Lai: surian wangi, Trung Hoa: Zi Chun (Tứ Xuân Mộc) v.v.
Cây xoan mộc là một loại cây cao từ 15 đến 40m. Đây là một loại thảo mộc vùng khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới. Nó được tìm thấy nhiều ở Nam Á, Đông Nam Á, hải đảo Thái Bình Dương và bắc Úc Đại Lợi. Hoa nhỏ li ti mọc thành chùm. Trái có nắp. Hột có hai cánh. Vỏ cây có mùi thơm. Vỏ có nhiều tannins. Gỗ mềm dễ cưa và bào. Người ta dùng gỗ cây xoan mộc để đóng thuyền, bàn ghế, tủ hay làm sàn nhà.
Vỏ và rễ cây xoan mộc dùng sắc nước uống trị kiết lỵ, tiêu chảy. Hoạt chất lấy từ lá cây xoan mộc có tính sát trùng Staphylococcus. Ở Việt Nam trong dân gian người ta dùng lá cây xoan mộc để trị tê thấp (đắp), điều kinh, cầm máu, trị tiêu chảy, kiết lỵ.
Ở Ấn Độ hoa cây xoan mộc dùng để làm thuốc nhuộm màu đỏ và màu vàng.
Ở miền ôn đới và bán nhiệt đới như Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật Bản, Âu Châu, Taiwan (Đài Loan),...có cây xuân mộc Ailanthus glandulosa thuộc gia đình Simaroubaceae. Cây nầy toát mùi dầu phọng lên men nên người Anh gọi là Stink tree và người Trung Hoa gọi là Chouchun (xú xuân mộc). Những âm xuânxoanxương,xuyên đều giống nhau trên 60%. Theo tiếng Trung Hoa cây xoan mộc được gọi là Zi Chun (tử xuân mộc) và cây xuân mộc được gọi là Chou Chun (xú xuân mộc). Nhưng chúng tôi không dám quả quyết địa danh Xuyên Mộc do cây xuân mộc mà ra vì cây xuân mộc Ailanthus glandulosa là thảo mộc miền ôn đới. Trái lại cây xoan mộc hay xương mộc được tìm thấy nhiều ở Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á quần đảo. Chữ Sureni trong tên khoa học của cây xoan mộc hay xương mộc xuất phát từ tên gọi Suren của người Indonesia và Mã Lai dành cho loại thảo mộc nầy. Xưa kia vùng Xuyên Mộc ngày nay là vùng kiểm xoát của người Khmer và Chàm. Người Chàm có quan hệ chủng tộc với người Mã Lai và Indonesia và tất cả cùng chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ trước khi theo Hồi Giáo. Người Khmer cũng chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Ấn Độ và có quan hệ lịch sử với Indonesia.

Gò Quao và cây quao
Gò Quao là một huyện của tỉnh Kiên Giang. Huyện nằm trên bắc vĩ tuyến 9 độ 45' và đông kinh tuyến 105 độ 59'. Huyện Gò Quao rộng 425 km2 (20,6 km x 20,6 km) với 145.000 dân vào năm 2003. Gò Quao nằm trong nội địa chớ không nằm trên Vịnh Thái Lan. Huyện nầy có 11 xã: Thị trấn Gò Quao, Thủy Liễu, Vĩnh Hòa Hưng Bắc, Vĩnh Hòa Hưng Nam, Vĩnh Phước A, Vĩnh Phước B, Định An, Định Hòa, Vĩnh Tuy, Vĩnh Thắng, Thới Quản. Gò Quao có sông Cái Lớn chảy ngang qua.
Trong tỉnh Bến Tre có Chợ Cái Quao nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 05' và đông kinh tuyến 106 độ 22'.
Địa danh Gò Quao và Chợ Cái Quao xuất phát từ tên của cây quao, một loại thảo mộc khá xa lạ với người Việt Nam.
Cây quao mang nhiều tên khoa học khác nhau như:Dolichandrone spathacea, Dolichandrone longissima, Bignonia javanica, Bignonia longiflora, Spathodea longiflora thuộc gia đình Bignoniaceae. Cây quao là một cây mọc dọc theo các dòng nước, vùng ẩm ướt hay hà khẩu các sông. Cây quao cao đến 20 m. Hoa trổ trên một cuống dài thẳng đứng. Hoa màu trắng, nở và tàn trong một ngày mà thôi. Trái quao dài từ 50 - 60 cm tựa như trái ô môi. Cây quao được tìm thấy nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka, các nước Đông Nam Á lục địa và quần đảo và ở các hải đảo Thái Bình Dương.
Người Anh gọi cây quao là mangrove trumpet tree (cây kèn rừng sát), người Tamil (nam Ấn Độ) gọi là Pannir, Sri Lanka:Dyia danga.
Gỗ cây quao nhẹ được dùng làm guốc (Phi Luật Tân), phao lưới cá, mặt nạ (Indonesia), đóng thùng, bàn, ghế, tủ.
Lá dùng làm nước súc miệng khi bị nhiễm trùng vùng miệng, đắp trên bụng trị chứng sình bụng của phụ nữ mới sinh con. Vỏ dùng để thuốc cá.
Một trong 12 xã của huyện Gò Quao có xã Thủy Liễu là tên gọi Hán-Việt của cây bần Sonneratia alba, một loại cây miền rừng sát, trái có đầu nhọn, khi rớt xuống nước đầu nhọn ghim dưới sình và mọc lên cây bần con. Trái bần ăn được. Gỗ dùng hầm than rất tốt (than bần, than đước).

Làng Cây Gáo và cây gáo
Làng Cây Gáo nằm trong huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai (Biên Hòa), là một trong những thí điểm trồng cao su của người Pháp vào cuối thế kỷ XIX. Huyện Trảng Bom rộng lối 326 km2 (18 x 18 km). Đó là nơi đường hỏa xa Xuyên Việt chạy ngang qua trước khi vào Biên Hòa.
Cây gáo là một cây to có gỗ vàng. Nó còn được gọi là huỳnh bá. Tên khoa học của cây gáo là Nauclea officinalis hay Sarcocephalus officinalis thuộc gia đìnhRubiaceae. Người Mã Lai và Indonesia gọi là Batang, Borneo: Katung, Kambala.
Cây gáo được tìm thấy nhiều ở Ấn Độ, Sri Lanka, các quốc gia Đông Nam Á lục địa và quần đảo, các hải đảo Thái Bình Dương. Cây cao từ 15 đến 20 m, lá hình bầu dục. Trái tròn màu hung đỏ nhạt. Gỗ vàng dùng để đóng bàn ghế, làm nhà, đóng thuyền. Cây gáo có alkaloids naucleatonins A & B kháng trùng và kháng viêm dùng để trị sốt rét nhưng không mạnh lắm.
Có một loại cây gáo vàng mang tên khoa học Nauclea cordifolia hay Adina cordifolia thuộc gia đình Rubiaceae như cây huỳnh bá (cây gáo).Người Anh gọi cây gáo vàng là yellow teak (gỗ teak vàng), Ấn Độ: Karam.
Cây gáo vàng nầy có umbelliferone, skimmin. Vỏ cây gáo vàng được dùng để trị tiêu chảy, kiết lỵ, thuốc bổ, kích dục, trục lãi. Vỏ cây gáo vàng kết hợp với vỏ cây núc nắc tức sò đo thuyền Oroxylum indicum và đường sắc với nước uống trị chứng tiểu gắt, tiểu xón. Cây gáo vàng nầy có thể cao từ 30 đến 40 m.

Giồng Riềng và củ riềng
Giồng Riềng là một huyện rộng lớn và đông dân cư trong tỉnh Kiên Giang, diện tích rộng lớn 634 km2 (25,17 km x 25,17 km) với gần 200.000 dân. Huyện nằm trên bắc vĩ tuyến 9 độ 54' và đông kinh tuyến 105 độ 19'. Huyện có đến 17 xã. Kinh tế dựa vào nông, ngư nghiệp và kỹ nghệ du lịch.
Giồng là vùng đất cao ít nước nên việc trồng trọt tương đối khó khăn hơn những vùng đất màu mở và có đầy đủ nước. Trong ca dao miền Nam có câu:
Mẹ mong gả thiếp về giồng,
Thiếp than phận thiếp gánh gồng chẳng kham.
Riềng là một loại củ giống như củ gừng. Đó là một loại hương liệu quan trọng như gừng, hành, tỏi trong nhà bếp Việt Nam và các nước Á Châu khác. Riềng có vị nồng và có mùi long não và dầu tràm. Người Việt Nam thường bỏ riềng vào mắm để khử bớt mùi mắm. Người ta cho riềng giã nhuyễn vào tré làm từ da và thịt heo trộn chung với thính. Những người nhậu rượu ăn cẩu nhục với riềng, lá mơ lông và rau om.
Ở Ấn Độ người ta dùng riềng để cất nước hoa. Dân du mục ở miền nam nước Nga uống nước trà riềng. Người Nga ngâm riềng trong giấm và rượu mạnh.
Riềng được trồng bằng củ. Bụi riềng cao từ 60 - 80 cm, lá dài, láng, màu xanh mướt. Hoa riềng và hoa nghệ được xem là hoa đẹp.
Tên khoa học của riềng là Alpinia officinarum, Alpinia sinensis, Alpinia galanga thuộc gia đình Zingiberaceae. Người Trung Hoa gọi riềng là Kao leang k'ang(thảo lương khương), Á Rập : Khanlanjan, Anh: galangal. Những tên gọi có âm hao hao như nhau. Chữ galangal có thể nhạy từ tiếng Á Rập Khalanjan vì người Anh tiếp xúc với người Ấn Độ và Á Rập trước khi tiếp xúc với Trung Hoa. Nhưng giữa thảo lương khương (Kao leang k'ang) và Khalanjan tên gọi nào xuất hiện trước? Người Âu Châu biết đến riềng vào thế kỷ XVII qua trung gian người Á Rập. Mãi đến hậu bán thế kỷ XIX người ta mới thấy các sách y dược của Á Rập đề cập đến riềng gọi theo người Trung Hoa là Lương Khương (leang k'ang:gừng ngọt). Chữ Khalanjan âm từ Kao leang k'ang (thảo lương khương) và được người Anh âm thành galangal. Người Anh còn gọi riềng là colic root vì tác dụng trị đau bụng của riềng.
Riềng có cineol, eugenol, cadinene, methylcinnamate. củ riềng dùng để trị đau bụng, chướng hơi, nôn mửa, đau ruột, tiêu chảy, kiết lỵ, kinh phong. Dùng nhiều bị ảo giác. Flavonol galangin của riềng làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư vú.
Riềng được ca dao Việt Nam nhắc đến trong câu:
Chim quyên nó đậu bụi riềng
Dẫu bà con ruột không tiền cũng xa.

Bến Lức và cỏ lức
Trong tỉnh Long An có hai địa danh Bến Lức:
1- Cầu Bến Lức.
2- Huyện Bến Lức.
Trước năm 1975 chỉ có cầu Bến Lức. Dưới thời CHXHCNVN mới có huyện Bến Lức trong tỉnh Long An.
Cầu Bến Lức bắt ngang qua sông Vàm Cỏ Đông.
Huyện Bến Lức là một trong 13 huyện thuộc tỉnh Long An, tỉnh bao quanh bởi hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Huyện Bến Lức nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 39' và đông kinh tuyến 106 độ 29'. Diện tích lối 290 km2 (17 km x 17 km) với lối 130.000 dân (2003) sống trên 14 xã: Mỹ Yên, Phước Lộc, Long Hiệp, Nhựt Chánh, Thanh Đức, Bình Đức, An Thạnh, Thạnh Phú, Tân Bửu, Tân Hòa, Lương Hoa, Thạnh Hòa, Lương Bình, Thạnh Lợi. Huyện Bến Lức giáp ranh với huyện Đức Hòa,  Đức Huệ ở phía Bắc; Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh) ở phía đông; Cần Giờ, Cần Giuộc, Tân Trụ ở phía nam và Thủ Thừa ở phía tây. Kinh tế dựa vào việc canh tác lúa, thơm và ngư nghiệp lục địa. Vị trí địa lý của Bến Lức rất quan trọng vì nằm giữa đoạn đường nối liền Sài Gòn-Mỹ Tho và  nằm trong vùng Đồng Tháp Mười gần biên giới Cambodia. Hai sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây đều bắt nguồn từ Cambodia.
Tên gọi Bến Lức do tên của một loại cỏ có hoa và là một loại cây thuốc: cỏ lức. có hai loại cỏ lức khác chính tả:  Đó là CỎ LỨC Pluchea indica và CỎ LỨTBupleurum chinense. Cả hai đều không cùng một gia đình thảo mộc. Chúng tôi lần lượt trình bày cả hai loại thảo mộc để xem loại thảo mộc nào thích hợp với tên Bến Lức quen thuộc với phần lớn những người miền Nam sống trên châu thổ sông Đồng Nai và sông Cửu Long.

1- Cỏ Lức - Cúc Tần - Sài Hồ Nam Pluchea indica
Tên khoa học của loại cỏ lức nầy là Pluchea indica (chỉ gốc ở Ấn Độ). Pluchea foliosa thuộc gia đình Astraceae của hoa cúc. Nó cũng được gọi là sài hồ namdưới tên khoa học Pluchea pteropoda, Pluchea leptophylla. Loại thảo mộc nầy được tìm thấy ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á. Cây cao từ 60 cm đến 1 m. Lá bầu, rìa lá có răng cưa. Hoa chùm màu trắng-hồng nhạt hay màu hồng. Trái nhỏ. Loại thảo mộc nầy thường mọc ở vùng ẩm ướt, đầm lầy, cửa sông v.v. Lá vò có mùi thơm long não. Vì vậy người Anh gọi là Indian camphorweed (cỏ long não Ấn Độ), Thái Lan: Nuat ngua, Lào: Nuat luat, Mã Lai và Indonesia: Beluntas, Trung Hoa: Guang geng kuo bao ju (Quảng canh quốc bảo cúc). Người Trung Hoa không gọi cỏ lức nầy là chai hu (sài hồ) như họ gọi cỏ lứt Bupleurum chinense mà chúng tôi sẽ đề cập sau.
Cỏ lức có ác xít quinicê-tequercetin. Người ta hái lá và cọng để xông khi bị sốt. Người Khmer giã lá cỏ lức hòa với rượu đắp vào cột xương sống khi bị đau thắt lưng và xương cụt. Cỏ lức kháng viêm và kháng trùng được dùng để trị đường tiểu bị nhiễm trùng. Ca dao miền Nam nói về cỏ lức như sau:
Ngó vô đám lức ngũ sắc còn có con ong vàng,
Anh coi đi coi lại duyên nàng còn không.

2- Cỏ Lứt - Bắc Sài Hồ Bupleurum chinense
Tên khoa học của cỏ lứt hay bắc sài hồ là Bupleurum chinense (gốc ở Trung Hoa), Bupleurum faleatum, Bupleurum scorzoneraefolium thuộc gia đìnhUmbelliferae có hoa như tàng dù. Cây cao từ 80 cm đến 1m. Lá giẹp và dài. Hoa nhỏ và tụ thành chùm như tàng dù màu vàng. Loại thảo mộc nầy có nhiều ở Trung Hoa, Triều Tiên, Taiwan (Đài Loan), Nhật Bản.
Người Anh gọi cỏ lứt bắc sài hồ nầy là Hare's ear root (thố nhĩ căn), red thorowax root; Trung Hoa: chai hu hay bei chai hu (bắc sài hồ); Nhật: Saiko; Triều Tiên: Siho.
Bắc sài hồ kháng viêm, kháng ung thư. Củ có saikosaponins, các ác xít béo, oleic, palmitic, quercetin, nacissin. Nó được dùng để trị viêm gan, cổ trướng (cirrhosis), bất lực sinh lý, tiểu đường, viêm lá lách, viêm thận, sạn thận, viêm phế quản, ho gà, suyễn, béo phì, tiểu đường v.v... Dược tính trị liệu của cỏ lứtBupleurum chinense kiến hiệu và đa dạng hơn cỏ lức Pluchea indica rất nhiều.
Chúng ta có hai loại dược thảo: cỏ lức và cỏ lứt. Loại nào thích hợp cho địa danh Bến Lức?
Cỏ lức 1 tức Pluchea indica có vẻ thích hợp hơn vì các lý do sau đây:
a- Xuất xứ Ấn Độ (Nam Á) của loại thảo mộc Pluchea indica tức cỏ lức. Bến Lức nằm ở Nam Á và trong vùng khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới. Cỏ lứt 2Bupleurum chinense hay bắc sài hồ là thảo mộc vùng khí hậu ôn đới và bán nhiệt đới. Sài hồ có nghĩa là củi nhúm lửa của rợ Hồ, tức người ở phương Bắc nước Trung Hoa. Sài hồ được nhập cảng dưới tên thương mãi thảo dược Radix Bupleuri.
b- Chúng ta gọi Pluchea indica là nam sài hồ để đối lại với bắc sài hồ (Bei Chai Ho) tức cỏ lứt 2 Bupleurum chinense. Trung Hoa gọi cỏ lức 1 Pluchea indica làGuang Geng Kuo Bao Ju (Quảng Canh Quốc Bảo Cúc) chớ không gọi là Nan Chai Ho (nam sài hồ). Nai Chai Ho (nam sài hồ) của người Trung Hoa chỉ cỏ lứt 2  Bupleurum scorzoneraefolium cùng dược tính trị liệu của Bupleurum chinense chớ không phải cỏ lức 1 Pluchea indica hay Pluchea leptophylla.
c- Về chánh tả chữ LỨC trong cỏ lức 1 Pluchea indica giống chữ LỨC trong địa danh Bến Lức.

Chợ Lách và cỏ lách
Chợ Lách là một huyện của tỉnh Bến Tre. Huyện rộng 190 km2 (13, 78 km x 13, 78 km) với lối 135.000 dân. Chợ Lách nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 16' và đông kinh tuyến 106 độ 07'. Làng Cái Mơn nằm trong huyện Chợ Lách. Đó là sinh quán của nhà ngôn ngữ học Trương Vĩnh Ký và là nơi có nhiều tín đồ Thiên Chúa Giáo sùng đạo. Cái Mơn nổi tiếng với những vườn cây ăn trái. Kinh tế huyện chợ Lách dựa vào ruộng lúa, vườn cây ăn trái, ngành trồng hoa, cây cảnh, chăn nuôi gà đá, gà thịt và ấp trứng để sản xuất gà con. Hiện nay Chợ Lách cũng là một địa điểm thu hút nhiều khách du lịch.
Cỏ láchĐịa danh Chợ Lách xuất phát từ sự hiện diện của cỏ lách.
Cỏ lách là thân thuộc của cây mía nhưng không có mật, thân cây nhỏ và yếu, cao từ 1 - 3 m, mọc thành bụi. Lá dài và bén như lá mía. Hoa mọc thẳng đứng như cây mía trổ cờ hay bông cây lau nhưng màu hồng nhạt trông đẹp mắt. Cỏ lách thường mọc ở những vùng ẩm thấp, gần các dòng nước. Nó có tác dụng giữ đất chống xâm thực nhưng đó là loại thảo mộc lấn đất.
Tên khoa học của cỏ lách là Saccharum arundinaceae thuộc gia đình Poaceae. Người Anh gọi là reedy sugar cane (mía sậy), hardy sugar cane, devil sugar cane; Trung Hoa: Ban mao; Ấn Độ: Ramsar; Sanskrit (Phạn): Shara.
Các nhà làm vườn trổng cỏ lách làm cảnh trong vườn. Trong trạng thái thiên nhiên người ta chặt cây lách đem về nhà làm chất đốt để nấu nướng. Lá cỏ lách có thể dùng để lợp nhà như tranh, lá mía, lá dừa.
Trong y học cổ truyền Ấn Độ người ta dùng rễ cỏ lách làm thuốc nhuận tiểu, cây dùng để cầm máu, trị bịnh về máu hay bịnh về đường tiểu.
Người Việt Nam dùng hình ảnh lau, lách, sậy để mô tả cảnh hoang dã, hẻo lánh như câu ca dao phổ biến ở miền Nam sau đây:
Đường đi những lách cùng lau,
Cha mẹ tham giàu gả ép duyên con.

Xóm Rạch Cui và cây cui tức cây huỳnh long
Ở miền Nam có rất nhiều địa danh mang tên cui như Cái Cui, Rạch Cui, Xóm Rạch Cui, Giồng Cui, Cầu Cây Cui, v.v.
Xóm Rạch Cui trong tỉnh Sóc Trăng nằm trong xã Long Đức , huyện Long Phú trên bắc vĩ thuyến 9 độ 42' và đông kinh tuyến 106 độ 04'. Phía tây của xóm là sông San Tard và phía đông là sông Hậu Giang.
Xóm Rạch Cui trong tình Cà Mau (An Xuyên, Minh Hải) nằm trong huyện Trần Văn Thới trên bắc vĩ tuyến 9 độ 08' và đông kinh tuyến 105 độ 02'.
Trong tỉnh Bến Tre (Kiến Hòa) có Ấp Giồng Cui nằm trên bắc vĩ tuyến 10 độ 05' và đông kinh tuyến 106 độ 24'. Ấp nằm trong huyện Mỏ Cày, phía đông của ấp là sông Hàm Luông.
Vậy cây cui là cây gì?
Cây cui, còn gọi là cây huỳnh long, là một loại cây cao từ 20 - 30 m. Cây cui được tìm thấy nhiều ở các nước Đông Nam Á lục địa và quần đảo. Tên khoa học làHeritiera javanica (gốc ở Java, Indonesia), Tarrietia javanica, Tarrietia cochinchinensis (gốc ở Nam Kỳ) thuộc gia đình Sterculiaceae của cây trôm. Người Indonesia và Mã Lai gọi cây cui hay huỳnh long là mengkulang jari, Khmer: dong chem, Thái Lan: thong suk, Borneo: kayu lisang, Phi Luật Tân: lumbayao. Người Anh gọi cây cui là menkulang dựa theo người Mã Lai. Đó cũng là tên gỗ thương mại ngoài thị trường quốc tế. Họ cũng gọi câu cui là cambodia mahogany(cây dái ngựa Cambodia). Người Pháp gọi là Acajou du Cambodge. Qua cách gọi tên ta thấy cây cui được tìm thấy nhiều ở Mã Lai, Indonesia và Cambodia. Ngày xưa Chân Lạp (Chenia) bao gồm Cambodia bây giờ và Nam Bộ (Thủy Chân Lạp - Water Chenia). Cây cui hay huỳnh long được tìm thấy nhiều ở Nam Bộ, nơi có nhiều địa danh nhỏ mang tên loại thảo mộc nầy như đã thấy ở phần trên.
Gỗ cây cui màu vàng-đỏ nhạt. gỗ nhẹ được dùng để đóng thuyền, làm nhà, đóng bàn ghế, tủ có giá trị trung bình. Cây cui cho bóng mát dọc theo các kinh rạch ở thôn quê miền Nam. Cành cây là một nguồn củi chụm. Cây cui giúp cho bờ kinh rạch chống sạt lở vì bị nước xói mòn.

Xóm Cây Sanh và cây sanh
Trong tỉnh Bình Dương và Đồng Tháp có Xóm Cây Sanh. Khu đất gần trường Mỹ Thuật Gia Định dọc theo đường Chi Lăng cũ được gọi là Xóm Hàng Sanh. ChữSanh được viết thành Xanh tức màu xanh chớ không phải cây sanh.
Cây sanh là cây đa Ficus indica thuộc gia đình Moraceae. Chúng tôi đã nói qua về cây đa trong phần nói về Bạc Liêu. Ở Việt Nam người ta nô nức trồng cây sanhbonsai. Nghe đâu có một cây sanh cảnh bonsai ở Bình Định được bán cả tỷ đồng Việt Nam!

 Ấp Cây Gừa hay cây gừa
Cây gừa
Ấp Cây Gừa là tên của hai ấp trong tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Hai ấp nầy mang tên của một loại cây mọc theo các dòng sông. Cây có nhiều rễ và cùng dòngFicus như cây đa. Đó là cây gừa.
Cây gừa hay cây si mang tên khoa học Ficus benjamina, Ficus comosa, Ficus nuda, Ficus pendula, Ficus papyrifera, Urostigma nudum, Urostigma benjaminum thuộc gia đình Moraceae. Cây da cũng thuộc dòng Ficus như cây sung, cây si (cây gừa), cây bồ đề và được biết dưới tên khoa học Ficus indica. Câ si hay cây gừa còn được gọi là cây sung tròn vì trái tròn màu đỏ-vàng ăn được.
Người Anh gọi cây si là weeping fig (cây sung rũ), Java fig (sung Java). Ở Borneo cây si hay cây gừa được gọi là Ara hay dunuk.  Người Khmer gọi là chrey pren. Cây gừa có thể cao đến 25 m, rễ lia chia. Cây to có hình dáng như cây da vì rễ to trở thành thân cây. Gốc như được cấu tạo bằng nhiều thân nhỏ họp lại. Lá dầy và láng. Trái tròn, nhỏ màu vàng cam khi chín. Cây gừa là một nguồn benzoin.
Ở Việt Nam người ta trồng cây gừa để cho rễ bám chặt vào hòn non bộ. Ngày nay cây gừa được dùng để làm cây cảnh bonsai. ỞẤn Độ người ta giã nát lá gừa hòa với dầu phết vào vết thương. Ở Việt Nam người ta dùng nhựa cây gừa hòa với lá của nó giã nát, hòa với rượu để đắp vào vết thương. Ở Ấn Độ người ta dùng nhựa và nước vắt của lá gừa hòa với sữa mẹ nhỏ mắt trẻ em khi giác mạc bị đục!

Bến Tranh và cỏ tranh
Địa danh Bến Tranh và có rất nhiều ở Nam Bộ như quận Bến Tranh (trước 1975) trong tỉnh Định Tường (Tiền Giang), xã Bến Tranh trên đảo Phú Quốc tỉnh Kiên Giang, Xóm Bến Tranh trong tỉnh Bình Dương. Địa danh có chữ Bến cho thấy có sự hiện diện của một dòng nước khá sâu cho ghe thuyền đến chở hàng và bốc dỡ hàng như Bến Cỏ, Bến Củi v.v... Địa danh Bến Tranh có liên hệ đến cỏ tranh.
Cỏ tranh được tìm thấy khắp nơi trên thế giới ở những vùng khí hậu nhiệt đới và bán nhiệt đới. Người Anh gọi cỏ tranh là Japanese blood grass vì có loại cỏ tranh màu đỏ như máu, blady grass vì lá bén. Tiếng Hán việt của cỏ tranh là bạch mao căn (rễ lông trắng). Cỏ tranh cao từ 1 - 2 m. Lá dài và bén nhu lá sả. Hoa màu trắng. Đất có cỏ tranh là đất khô cằn, khô hạn và không màu mõ. Vì rễ cỏ tranh bám sâu dưới đất cả thước nên rất khó diệt. Người ta dùng lửa đốt để diệt cỏ tranh, nhưng rễ của nó bám sâu dưới đất nên chỉ cần trời mưa xuống thì tranh non mọc lên.
Rễ tranh có 18% đường, các loại ác xít citric, malic, tartatric, oxalic, triterpene methylethers, arundoin và cylindrin.
Tranh dùng để lợp nhà. Rễ tranh kết hợp với lá mã đề, mía lau nấu nước uống giải nhiệt. Nước rễ tranh lợi tiểu, hữu ích cho các bịnh về thận, phù thũng, huyết tiện, xuất huyết, thổ huyết, cao huyết áp, trĩ, máu cam, hoàng đản.
Ở Cambodia người ta kết hợp rễ tranh với vài loại thảo mộc khác để trị bịnh trĩ.
Ở Trung Hoa rễ tranh được xem như nhuận tiểu, hạ sốt, trị nôn mửa, phù thũng.
Người Phi Luật Tân dùng rễ tranh và cọng để trị kiết lỵ.
Ở Phi Châu cỏ tranh được dùng để trị lâm lậu, tiểu tiện khó khăn.

Sông Tra và cây tra
Sông Tra và Rạch Tra là hai địa danh mang tên cây tra bồ đề. Sông Tra nằm trong tỉnh Long An. Rạch Tra nằm trong xã Đông Thânh, huyện Hóc Môn. Rạch Tra ăn thông với sông Sài Gòn.
Cây tra
Cây tra bồ đề là một loại thảo mộc vùng khí hậu nhiệt đới và đại dương. Nó được tìm thấy nhiều ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á và các hải đảo Thái Bình Dương. Cây cao từ 10 - 15 m, lá hình trái tim như lá bồ đề. Hoa hình ly, cánh to và mỏng màu vàng nhạt hay màu hồng giống như hoa cây bông vải. Trái nhỏ. Ở Ấn Độ người ta trồng cây tra quanh đền và xem đó là thiêng mộc. Ý niệm nầy cũng được tìm thấy trên các hải đảo Thái Bình Dương
Tên khoa học của cây tra là Thespesia populnea thuộc gia đình Malvaceae như hoa dâm bụt, bông vải. Người Pháp gọi cây tra là motel debout (lữ điếm đứng), Anh: Pacific rosewood, Portia tree, Indian tulip tree. Ở Hawaii người ta gọi là Milo.
Trái, lá non và hoa cây tra ăn được.
Hột là nguồn dầu và gossypol rất độc cho người lẫn thú vật. Gossypol C30H30O8 trong dầu hột bông vải gây chứng vô tự cho nam giới trong tỉnh Jangxi (Giang Tây) vào cuối thập niên 1920. Theo những nghiên cứu hiện hành nó lại có tính năng chống ung thư. Dầu dùng để thấp đèn, thoa bóp tê thấp, trị ghẻ. Hột là chất nhuộm màu vàng-xanh.
Gỗ là màu nhuộm vàng cho len (laine). Gỗ cây tra dùng để đóng thuyền, làm đàn (Ấn  Độ), đóng thùng và các vật dụng có giá trị tầm thường.
Sợi lấy từ vỏ cây tra dùng để làm dây.
Lá làm màu nhuộm đen.
Trái non có nhiều tannins được vắt nước trị côn trùng cắn, lâm lậu, hắc lào, nhức đầu, ghẻ, vết chai, v.v…

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Monday 15 July 2013

Giả thuyết và gợi ý về vài tên gọi thảo mộc (Phạm Đình Lân - Cái Đình)



Trong bài viết nầy tôi nêu lên giả thuyết về Cây Lơn và Cây Quéo.  Nhờ độc giả góp ý về hai giả thuyết nầy và cách gọi tên SƯNG dành cho dòng thảo mộc SemecarpusXUÂN TÔN dành cho dòng SwintoniaRI-TA hay TÌ-TA dành cho dòng Chirita, v.v...
*
Địa cầu rộng lớn và có nhiều vùng khí hậu khác nhau: khí hậu hàn đới, ôn đới, nhiệt đới, xích đới, sa mạc và đại dương với vô số các loại thảo mộc khác nhau. Việt Nam là một nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên chỉ có các loại thảo mộc của vùng khí hậu nầy mà thôi. Cây cao su, cà phê, một số hoa, quả và rau cải trồng ở Đà Lạt trên cao nguyên Nam Trung Bộ là những loại thảo mộc do người Pháp du nhập vào Việt Nam. Chúng được trồng ở những vùng có thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp.
Cách đặt tên thảo mộc Việt Nam dựa vào:
- Cách gọi của người Trung Hoa: Lạc tiên (dây chùm bao), đại phong tử (cây chùm bao lớn), hương phụ (củ cỏ gấu), ba la mật (mít), hương cai (xoài), thiều lệ chi (chôm chôm), mã cật (măng cụt). Vua Minh Mạng gọi trái măng cụt là Giáng Châu Tử, v.v…
- Cách gọi tên của người Thái, Khmer: Thurien (sầu riêng), makok (cây cóc), mangkut (măng cụt)mean bat (bình bát), svaay (xoài), muom (muỗm - xoài muỗm), v.v…
- Cách gọi tên của Pháp: cà tô mát (tomate), cải xà lách (salade), cải xà lách son (cresson), cao su (caoutchouc), cà phê (café), v.v…
- Hình dáng và màu sắc của thảo mộc: Cây móng bò, cỏ chỉ, cỏ lọ nồi, cây mun, cỏ bạc đầu, ngưu tất (đầu gối bò), ngưu thiệt (lưỡi bò), mướp khía, bí đỏ, cây dái ngựa, dây mù (hà thủ ô), mơ lòng (mơ tam thể), tía tô, thanh dại, đậu rồng, đậu xanh, đậu trắng, đậu đỏ, đậu đen, v.v…
- Hương vị: Cỏ chua lè, mật thảo, cây muối, cây ký ninh, mướp đắng, bạc hà, rau đắng, hoa tử thi, cây trôm hôi, v.v..
- Công dụng: Cây thuốc dòi, cây trường sinh, cây thuốc rắn, dền canh, cỏ bắt ruồi (Trường Lệ), dâm dương hoắc, cỏ chó đẻ, v.v…
Trong bài viết nầy tôi nêu lên giả thuyết về Cây Lơn và Cây Quéo.  Nhờ độc giả góp ý về hai giả thuyết nầy và cách gọi tên SƯNG dành cho dòng thảo mộcSemecarpusXUÂN TÔN dành cho dòng SwintoniaRI-TA hay TÌ-TA dành cho dòng Chirita, v.v.

Cây Lơn?
Ở Dĩ An (trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương) gần Quốc Lộ 1 cũ có Ngã Ba Cây Lơn. Sau khi tìm kiếm xem cây lơn là cây gì nhưng không ra nguồn gốc của loại thảo mộc nầy, người ta sửa Ngã Ba Cây Lơn thành Ngã Ba Cây Lớn. Lớn ở đây là chữ trái nghĩa với nhỏ. Phải chăng gần đó có cây nhỏ? Cây lớn và cây nhỏ là tên của cây gì? Từ một ẩn số Cây Lơn, ta tạo thêm hai ẩn số khác (Cây Lớn và Cây Nhỏ) nhưng vẫn không có câu giải đáp thỏa đáng.
Có một loại thảo mộc miền nhiệt đới gọi là Chày Lơn, một tên gọi có vẻ là tên phiên âm từ tiếng Khmer. Đó là loại thảo mộc mang tên khoa học Buchanania lucida thuộc gia đình Anancardiaceae của cây điều lộn hột. Người Việt Nam còn gọi là cây xoài giả, cây sáng, cây mà cá. Các tên khoa học đồng nghĩa với Buchanania lucida là:
- Buchanania arborescens.
- Buchanania florida.
- Buchanania platyphylla.
Ta gọi cây Sáng có lẽ do chữ Lucida trong tên khoa học mà ra?
Hay do âm cuối của tên gọi Getasan của người Indonesia?
Hay dịch từ tên gọi thông thường của cây chày lơn từ tiếng Anh: Lightwood?
Cây sáng hay chày lơn cao từ 30m - 40m; lá rộng, dài; đầu lá nhọn. Lá non màu hồng như lá xoài non. Hoa nhỏ màu trắng-vàng nhạt giống như hoa cây xoài. Nhìn chung gọi là cây xoài giả cũng không xa sự thật bao nhiêu. Chỉ khác là trái sáng, trái chày lơn hay mà cá nầy nhỏ, hột cứng và ít cơm không giống như trái xoài. Cây sáng có nhựa như cây xoài. Vỏ có nhiều sợi.
Người Mã Lai gọi là cây sáng (chày lơn, xoài giả) là Otak udang tumpul.
Indonesia: Getasan.
Thái Lan: Chaa muang.
Phi Luật Tân: Balinghasai.
Trung Hoa gọi cây sáng hay chày lơn là Shan xian zhi (sơn tiên tử).
Anh gọi là sparrow's mango (xoài chim sẻ vì loài chim nầy thích ăn trái chày lơn), little gooseberry treesatinwood (cây sơn tiên), lightwood.
Dân hải đảo Thái Bình Dương gọi cây chày lơn (cây sáng) là Mangkarrba. Tên gọi Mà Cả có liên hệ gì đến tên gọi Mangkarrba không? Hay đó là âm 1 và 3 của chữ Ma/lac/ca nơi có nhiều cây sáng?
Cây sáng hay chày lơn cho nhiều gỗ. Trái ăn được nhưng không đặc biệt vì nhỏ, ít cơm. Hiện nay loại thảo mộc nầy trở nên hiếm dần.

Cây Quéo?
Ở Bình Hòa, bây giờ là Bình Thạnh, có xóm Cây Quéo. Theo từ nguyên thì Quéo là một hình dung từ chỉ một vật bị cong ở đầu. Cây Quéo có thể:
1- Là cây có đọt bị quéo lại vì một lý do nào đó (hiểu theo nghĩa trực tiếp).
2- Là cây xoài quéo.
Xoài Quéo được tìm thấy trong trạng thái hoang dã trên quần đảo Inonesia như đảo Sumatra, Kalimantan, Biên Hòa (Nam Bộ), đảo New Guinea, v.v… Trái xoài quéo trông xấu xí không giống như trái xoài thường thấy:
Tên khoa học của xoài quéo là:
- Mangifera reba.
- Mangifera camptosperma.
- Mangifera inocarpoides.
- Mangifera gedebe.
Người Anh gọi là Bent-seed mango vì cả trái lẫn hột đều quéo cong lại.
Người Trung Hoa gọi là Wan zi mang guo.
Người Khmer gọi là svaay reba, svaay miehs.
Người Indonesia ở Kalimantan gọi là repeh.
Xoài quéo cũng có nhiều trên các hải đảo Thái Bình Dương nhưng dân chúng không thích ăn trái. Cư dân trên đảo Kalimantan dùng gỗ cây xoài quéo làm vách hay sàn nhà.

Về tên gọi "SƯNG" cho dòng thảo mộc Semecarpus, gia đình thảo mộc Anacardiaceae
Dòng Semecarpus thuộc gia đình thảo mộc Anacardiaceae của cây điều, cây xoài. Không biết vì sao trong danh mục thực vật Việt Nam gọi dòng nầy là SƯNGSemecarpus cochinchinensisđược gọi là Sưng Nam Bộ (Cochinchinensis: Nam Kỳ), Semecarpus caudata được gọi là Sưng Có Đuôi,v.v…
 Theo từ nguyên khoa học gốc Hy Lạp ngữ thì Seme (Sema) có nghĩa là dấu (mark, sign),Carpus (karpos): trái. Semecarpus là trái để làm dấu chớ không phải trên trái có dấu. Thực tế không phải là trái mà là hột. Cây Semecarpus anacardium hay Anacardium orientale là một loại cây điều lộn hột gốc ở phương đông hay rõ hơn ở Ấn Độ. Hột trái điều không nằm trong trái mà nằm ở ngoài. Thợ giặt ủi ở Ấn Độ dùng nhựa hột trái điều nầy để làm dấu quần áo trước khi giặt. Vì vậy người Anh gọi cây điều Ấn Độ nầy (đối lại với cây điều mà chúng ta biết ở miền NamAnacardium occidentale vì nó gốc ở Tây Bán Cầu) là marking nut, Oriental sachew nut, varnish tree (cậy vẹt-ni), Malacca nut (Malacca: bán đảo Mã Lai), Ink tree (vì dùng làm mực).
Người Ấn Độ gọi cây điều Đông Phương là Bhallatak. cổ y Ấn Độ đề cao tính năng trị liệu của hột điều mặc dù hột điều có nhiều độc chất (ở vỏ) nhưng cơm béo và bùi rất ngon. Nhựa hột điều đụng vào da gây phỏng da. Có phải chăng chử SƯNG được dùng trong nghĩa nầy hay còn có nghĩa gì khác nữa. Hay chỉ là âm dịch từ chữ SEM, âm đầu của tên khoa học Semecarpus, nên không có nghĩa gì cả?
Hột điều Đông Phương có biflavonoids, hợp chất phenols, bhilawanols, nhiều khoáng chất, nhiều sinh tố, amino acids, v.v… Nó được dùng để trị đau khớp xương, u bướu, nhiễm trùng, ho ra máu, kinh nguyệt quá đà, táo bón, trùng lãi, kháng oxy hóa. kháng viêm, hạ máu đường, trị ung thư gan, bệnh về đường tiểu, tâm bịnh (hay buồn, giận, nóng nảy, sợ sệt, v.v...). Nước vắt của trái điều Đông Phương tăng cường trí nhớ, trị chứng mất cảm xúc và chứng tê bại. Anacardium orientale trở thành một nhãn hiệu thuốc 'bá chứng' nổi tiếng hiện nay. Từ chữ Anacardium người ta tách ra chữ Cardium, tức là trái tim và liên hệ trái điều với trái tim. Đó là phương cách trị liệu của cổ nhân ngày xưa dựa vào ý niệm: Giống cái gì thì chữa cái đó (Homeopathy 'Like Cure Like').

Về tên gọi "XUÂN TÔN" dành cho thảo mộc mang tên khoa học Swintonia griffithii
Hai chữ "Xuân Tôn" có vẻ như là hai âm đầu của chữ Swin-ton-ia. Chắc chắn đại đa số người Việt Nam đều xa lạ với tên gọi nầy.
Về tên khoa học của Swintonia griffithii có một số tên đồng nghĩa khác như:
- Swintonia floribunda.
- Swintonia helferi.
- Swintonia puberula.
- Swintonia penangiana.
Tên khoa học cuối cùng cho thấy nguồn gốc Penang, một hòn đảo thuộc Mã Lai. Loại thảo mộc dòng Swintonia và gia đình Anacardiaceae của cây xoài, cây điều được tìm thấy nhiều ở Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân, Việt Nam, Cambodia, Miến Điện.
Tên gọi thông thường của thảo mộc Swintonia griffithii:
- Mã Lai: Merpauh daun runching hay gọi tắt là Merpauh.
- Indonesia: Kedongbong rabuk (Sumatra), Kerata (Indonesia).
- Miến Điện: Thaytkin, Thayyet san.
- Bangladesh: Civit
- Cambodia: Muom
- Việt Nam: Muỗm.
- Anh: Merpauh (dựa theo cách gọi của người Mã Lai).
Tên gọi Muỗm của người Việt Nam vay mượn của người Khmer. Đó là một loại xoài trái nhỏ: xoài muỗm. Dù là một tên vay mượn nhưng tên gọi nầy có vẻ gần gủi với người Việt Nam vì xoài muỗm không xa lạ gì với người Việt Nam, nhất là cư dân sống trên đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Nai. Việt Nam và Cambodia là hai quốc gia láng giềng có liên hệ lịch sử và địa lý gần gủi và gắn bó.
Tôi đề nghị dùng chữ Muỗm hay Xoài Muỗm cho thảo mộc mang tên khoa học Swintonia griffithii và các tên khoa học đồng nghĩa khác đã ghi ở phần đầu hơn là chữ Xuân Tôn.
Cây xoài muỗm cao đến 40m. Là giẹp, dài, đầu lá nhọn, gân lá rất rõ. Hoa nhỏ. Trái tròn và nhỏ. Trái xoài muỗm không được truyền tụng nhưng gỗ cây xoài muỗm màu đỏ hồng và được bán ngoài thị trường gỗ dưới tên Am-barola. Gỗ cây muỗm được dùng để làm nhà, bột giấy. Cây muỗm tươi có nhiều nhựa. Nhựa gây phỏng da khi đụng đến. Lá cây muỗm có carotenoids, hợp chất phenol chống oxy hóa.

Về tên gọi 'Ri-Ta' hay 'Tì-Ta' cho dòng Chirita, gia đình thảo mộc Gesneriaceae
Từ chữ Chirita ta có tên gọi Ri-Ta hay Tì-Ta, tức là lấy hai âm cuối của chữ CHI-RI-TA.
Chữ Chirita gốc tiếng Ấn Độ và Nepal, có nghĩa là gentian trong tiếng Anh. Người Ấn Độ gọi là chirayata, chirata, chirayita, chiretta, chirita. (CHI đọc thành KI). Tiếng Sanskrit (Phạn) gọi là Kirata. Chữ gentian chỉ những loại cây có vị thật đắng, thân có lông; hoa màu xanh-tím sậm. Trên thực tế hoa của loại thảo mộc nầy có nhiều màu khác nhau. Hoa hình loa kèn hay hình chuông, nhưng nét đặc biệt nhất là những loại hoa màu xanh-tím sậm như long đàm thảo Swertia chirata hay Gentiana chirayita, gia đình Gentianaceae được người Ấn Độ dùng làm thuốc trị sốt, sốt rét, trùng lãi, táo bón, nôn mửa, bịnh về gan, mật, bàng quang, ho lao,... Vị đắng do sự hiện diện của ác xít ophelic C13 H20 O10 và chiratin C26 H48 O15 mà ra. Thảo mộc có hoa xanh-tím sậm và vị đắng đặc biệt dòng Swertia hay Gentiana (1) được tìm thấy khắp các vùng khí hậu trên thế giới ngoại trừ Nam Băng Châu. Người Anh gọi long đàm thảo (cỏ mật rồng) nầy là bitter stick.
Thảo mộc dòng Chirita thuộc gia đình Gesneriaceae được tìm thấy ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á và được trồng để làm cảnh. Cây cao từ 40cm - 50cm; thân mềm, dễ gảy, có lông mịn; lá hình trái tim; hoa năm cánh không đều, đa số có màu xanh-tím sậm. Ngoài ra còn có những màu khác. Người Anh vẫn dùng chữ chirita của Nepal và Ấn Độ. Chữ chirita của tiếng Hindi cũng được dùng để chỉ cây xuyên tâm liên (chuan xin lianAndrographis paniculata mà người Anh gọi là King of bittersgiống như Roi des amers  - có nghĩa là Vua đắng - của người Pháp.
Điều đáng ngạc nhiên là thảo mộc CHIRITA có ở Việt Nam nhưng tại sao nó không có tên mà phải âm hai âm cuối của chữ CHI-RI-TA để trở thành Ri-Ta hay Tì-Ta? Tôi đoan chắc rằng đa số người Việt Nam rất xa lạ với tên gọi nầy. Nều người Anh phải dùng chữ Chirita của Nepal và Ấn Độ và gọi xuyên tâm liên là green chirayta để gợi lên vị đáng đặc biệt của loại dược thảo nầy thì chúng ta không dùng nguyên từ Chirita mà dùng nôm na Cỏ Đắng hay nói theo từ Hán Việt là Khổ Thảo căn cứ theo vị đắng của nó để người học dễ hiểu hơn. Xuyên tâm liên được gọi là khổ đàm thảo.
*
Trong khuôn khổ bài viết ngắn nầy chúng tôi chỉ đưa ra vài trường hợp điển hình mà thôi. Còn rất nhiều trường hợp gọi tên thảo mộc bằng cách Việt hóa những âm đầu hay âm cuối của tên khoa học đôi khi được đặt ra để tưởng nhớ đến nhà thực vật học hay nhà trồng tỉa có công khám phá ra loại thảo mộc đó. Khi âm ra tiếng Việt thì người học ngơ ngác không hiểu gì cả, nhưng họ bắt buộc phải học thuộc lòng điều mà mình không nắm vững lai lịch, cội nguồn giống như các nhà nho ngày xưa phải học thuộc lòng và chấp nhận vô điều kiện những gì Khổng Tử và Mạnh Tử viết hay nói. Hy vọng rằng người đọc thông hiểu ý của người viết và vui vẻ góp ý về giả thuyết Cây Lơn, Cây Quéo và phản hồi sự góp ý của người viết vào lãnh vực thực vật học mênh mông nầy. Thế gian không có sự hoàn hảo. Mọi góp ý và bàn bạc một cách vô tư, xây dựng và bất vụ lợi sẽ giúp cho cuộc sống hôm nay tốt hơn cuộc sống ngày hôm qua và cuộc sống ngày mai tốt hơn hôm nay. Cứ như thế vũ trụ xoay dần. Xã hội loài người có tiến bộ nhưng không bao giờ có sự hoàn hảo. Trong chừng mực nào đó sự hoàn hảo gây ra nạn thất nghiệp và sự thiếu động não cho các thế hệ kế tiếp.

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
_______________________
(1) Xuất phát từ tên của vua Gentius của Illyria ngự trị từ năm 181 - 168 trước Tây Lịch. Ông là người đầu tiên khám phá ra tính năng trị sốt của long đàm thảo Gentiana chirita.