Showing posts sorted by relevance for query "Lư Thoa". Sort by date Show all posts
Showing posts sorted by relevance for query "Lư Thoa". Sort by date Show all posts

Wednesday 7 August 2013

Lư Thoa là ai?


Lư Thoa là Rousseau, được người Việt đầu thế kỷ 20 biết đến qua tác phẩm Xã ước (Du contrat social,
nay dịch là Rút-xô Bàn về khế ước xã hội). Trên tân thư chữ Hán, tên Rousseau được người Trung Quốc phiên là 盧梭 (âm Hán Việt là Lư Thoa).
Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa
Dân ước nhân quyền ông xướng ra
Ông sinh thế kỷ thứ mười tám
Hai trăm năm nay đời đã qua
Tiếng ông còn ở trên thế giới
Tượng ông còn đứng bên Lãng-sa
Sau lúc ông chết, tỏ danh giá
Ông còn đương sống, không vinh hoa
Vinh hoa danh giá, ông không tưởng
Thương đời bao quản đời coi ta
Tượng đồng còn đó, ông còn đó
Nghìn thu gió táp cùng mưa sa
Mưa sa gió táp ông không quản
Ông đứng lo đời còn lâu xa
Nhớ ông bao nhiêu kính lại mến
Học trò xin có bài thơ ca

(Tản Đà, Hữu Thanh 1921)

Sunday 2 December 2012

Câu chuyện phiên âm (Nam Văn)

Câu chuyện phiên âm

Nam Văn

Hình ảnh của Câu chuyện phiên âm
HỎI:
Gần đây tôi có đọc trên nhật báo Thanh Niên một bài tên là Loạn phiên âm, trong đó ông nhà báo than phiền rằng các nhà soạn sách giáo khoa hiện nay có lối làm ăn vừa phản khoa học vừa tùy tiện khi phiên âm các từ quốc tế (những nhân danh và những địa danh…) khiến cho các giáo viên và các học sinh đều kêu khổ vì không còn biết đường nào mà lần.
Vấn đề phiên âm các từ quốc tế hình như không phải là một vấn đề mới mẻ gì mà đã có từ lâu và là một vấn đề chung cho các sách, các báo chí chứ không riêng gì cho sách giáo khoa. Nghe nói là ngày trước các nhà dịch sách đã áp dụng nhiều cách phiên âm khi gặp những từ nước ngoài có dính dáng đến tên người, tên đất. Không biết những cách phiên âm ấy ra sao? Có khác với cách trong sách giáo khoa của chúng ta ngày nay không?
(Huỳnh Văn Cứ - đường D2, quận Bình Thạnh, TP.Hồ Chí Minh)

ĐÁP:
Ngày xưa, tức là từ thế kỷ XVIII trở về trước các cụ của chúng ta tiếp xúc thẳng với nền văn hóa Trung Quốc nên công việc phiên âm không thành vấn đề với các cụ. Các cụ viết bằng chữ Trung Quốc, chỉ có cách đọc là khác với Trung Quốc thôi, vì các cụ đọc với giọng Việt. Chữ 天 nghĩa là trời, Trung Quốc đọc là thín thì các cụ đọc là thiên, chữ 人 nghĩa là người, Trung Quốc đọc là dành thì các cụ đọc là nhân.
Câu đầu của bài thơ Cảm hoài của Đặng Dung, Trung Quốc đọc là Xây di dầu dầu nòi lọ hò, thì các cụ đọc là Thế sự du du nại lão hà. Khi dịch Tỳ bà hành, ngay câu một đã gặp tên đất là Tầm Dương thì các cụ đọc và dịch luôn là Tầm Dương chứ không phải phiên âm lôi thôi gì cả. “Bến Tầm Dương canh  khuya đưa khách/ Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu”. Các cụ không bị mệt óc như chúng ta bây giờ.
Nhưng từ cuối thế kỷ XVIII trở về sau người nước ngoài bắt đầu đến Đàng Trong và Đàng Ngoài khá đông, nhất là đám quan binh do Giám mục Pigneau de Béhaine (sau này được gọi là Đức cha Bá Đa Lộc) đưa từ Pháp, từ Poudichéry (Ấn Độ) sang để giúp sức cho Nguyễn Ánh đánh với nhà Tây Sơn thì câu chuyện phiên âm trong lịch sử ngôn ngữ của chúng ta cũng bắt đầu.
Tên của cai đội Manuel đánh nhau với Tây Sơn và hy sinh trong trận thủy chiến ở cửa Thị Nại được Nguyễn Ánh phiên âm là Mạn Hòe. Về sau có lẽ thấy phiên âm mệt quá, khó khăn quá nên vua Gia Long (lúc này Nguyễn Ánh đã lên ngôi) cho một số sĩ quan Pháp được theo họ của vua và đặt cho họ những cái tên Việt. Chaigneau được mang tên là Nguyễn Văn Thắng hay Nguyễn Văn Chấn gì đấy.
Tên của viên quan ba Francis Garnier, người sau này bị quân Cờ Đen “chặt mất sỏ” (theo văn tế của cụ Tam Nguyên Yên Đổ), sau khi Tổng đốc Hoàng Diệu tử tiết và thành Hà Nội thất thủ, cũng được người dân Hà Nội phiên âm là Ngạc Nhi. Đó là thời kỳ phôi thai của câu chuyện phiên âm.
Mấy chục năm sau, khi các nhà Nho yêu nước của Việt Nam đọc được loại sách của Lâm Thư dịch của phương Tây thì những tên người, tên đất của Anh, của Đức, của Pháp, của Hà Lan được phiên âm theo lối Trung Quốc chứ không theo cách đọc trài trạiManuel thành Mạn HòeGarnier thành Ngạc NhiFrançais thành Pha Lang Sa như thời Gia Long, thời tiền Đông Kinh nghĩa thục nữa.
Jean-Jacques Rousseau sẽ là Lư ThoaMontesquieu sẽ thành Mạnh Đức Tư CưuChristophe Colomb sẽ là Kha Luân BốKarl Marx sẽ là Mã Khắc TưDarwin sẽ là Đạc Nhĩ VănDeustchland sẽ là nước ĐứcWashington sẽ là Hoa Thịnh ĐốnParis sẽ làBa Lê, thủ đô nước Nga sẽ là Mạc Tư KhoaSibérie sẽ là Tây Bá Lợi ÁHimalaya sẽ là Hi Mã Lạp Sơn, và còn nhiều nữa. Đó là thời kỳ thứ hai của câu chuyện phiên âm.
pic
Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Thời kỳ thứ ba có lẽ bắt đầu từ nhóm Nam Phong của Phạm Quỳnh và Nguyễn Bá Học, từ nhóm Đông Dương Tạp chí của Nguyễn Văn Vĩnh. Vở kịch thơ Le Cid của Corneille được phiên âm là Lôi Xích, là Lôi Địch. Ông Nguyễn Văn Vĩnh vừa nằm đong đưa trên võng vừa dịch miệng Ba chàng ngự lâm pháo thủ cho người khác chép đã dùng cách riêng của ông để phiên âm d’Artagnan thànhĐắc Ta Nhan, Aramis thành A La Mĩ, Athos thành A TốPorthos thành Bô Tố.
Sau ông có Vũ Ngọc Phan cũng theo lối riêng phiên âm Tristan et Yseult thành Tiêu Nhiên và Mị Cơ. Khi dịch Tolstoi từ một bản dịch của Pháp, ông Vũ phiên âm Anna Karénine thành An Na Kha Lệ Ninh, nhân vật Urousky thành Vương Kỳ. Một dịch giả khác mà tôi không nhớ tên phiên âm Le comte de Monte-Cristo của Alexandre Dumas là Bá tước Kích Tôn Sơn. Thời kỳ thứ ba không theo trọn cách phiên âm của Trung Quốc mà chỉ theo có một nửa, phần còn lại là của ta tức là theo trí tưởng tượng bay bổng của người dịch.
Thời kỳ sau 1945 là thời kỳ thứ tư của câu chuyện phiên âm và kéo dài có lẽ cho đến mấy năm gần đây, trước khi xảy ra vụ mà báoThanh Niên gọi là Loạn phiên âm. Trong thời kỳ này công việc phiên âm được tổ chức và được tiến hành tương đối có phương pháp, có quy tắc hơn, nhưng cũng còn một chỗ hơi phiền là người ta cẩn thận và chi ly quá, đến nỗi phiên âm theo cách đọc của từng nước một.
Dịch một tác phẩm của Tây Ban Nha thì phiên âm theo cách đọc của Tây Ban Nha, một tác phẩm của Đức thì theo cách đọc của Đức. Thú thật là tôi hơi là lạ khi cầm đến tác phẩm lừng danh của Miguel de Cervantes và đọc thấy bốn chữ Đông Ki Hô Tê. Trước giờ tôi chỉ quen với Đông Ki Sốt. Tôi thấy bên Pháp hay bên Anh người ta theo một tiêu chuẩn quốc gia của riêng người ta để phiên âm.
Thủ đô của nước Nga được cả Pháp, cả Anh, cả Mỹ phiên âm là Moscou, là Moscow chứ không theo âm đọc Matxcơva. Nếu phải tùy theo cách đọc của mỗi nước thì dễ mệt lắm, dễ thành lung tung lắm. Pháp đã bị một vố với con sông Thames chảy qua thủ đôLondres của Anh (Londres là theo Pháp chứ theo người Anh thì là London). Thames người Anh đọc là “Tê mi dzơ”. Pháp nghe ba chớp ba nháng như thế nào không biết mà cho đến ngày nay đa số người Pháp không biết sông Thames là con sông nào mà chỉ biết con sông Tamise chảy qua London thôi. Chỉ trừ một vài trường hợp hơi hiếm người ta mới phiên âm theo giọng đọc của người khác.
Trường hợp Trung Quốc chẳng hạn. Trước kia những nhân danh, địa danh Trung Quốc đều được phiên âm theo kiểu của trường Viễn Đông Bác cổ. Bắc Kinh phiên âm là Pékin, Peking. Mao Trạch Đông là Mao Tse Tung. Nhưng bây giờ theo giọng đọc mới của Trung Quốc các nước phương Tây đã phiên âm lại là Beijing, là Mao Zei Dong.
Ngoài ra ở nhiều nước lại có chuyện chữ viết một đằng mà giọng đọc lại một nẻo. Ở Pháp có nhà bác học tên viết là Louis de Broglienhưng lại đọc là Louis de “Brơi”, có ông tướng thua trận Điện Biên Phủ tên viết là De Castries mà đọc là De “Cát” (không có“tri”), có ông nhà thơ tên viết là Leconte de Lisle mà đọc là Leconte de “Lile”.
Ở Anh có nhà văn nổi tiếng là William Somerset Maugham nhưng phải đọc là William Somerset “Mom”. Nếu căn cứ theo cách phiên âm để tìm những cái tên như thế này trên sách, trên báo thì có tìm đến bảy ngày cũng không tìm thấy.
Để kết luận, chúng ta mong mỏi các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, các nhà soạn sách giáo khoa Việt Nam nên cùng ngồi lại với nhau, bàn bạc thật kỹ càng để tìm cho Việt Nam một phương pháp phiên âm vừa khoa học vừa hiện đại, vừa tiến bộ, vừa hợp lý hợp tình.

Thursday 25 April 2013

CHUYỆN TIẾNG VIỆT: ĐỪNG VỘI VÀNG (Trao đổi với tác giả Hoàng Hồng Minh) (Đào Tiến Thi)


                               CHUYỆN TIẾNG VIỆT:  ĐỪNG VỘI VÀNG
ThS. Đào Tiến Thi
(NXB Giáo dục Việt Nam)
Trong bài Chuyện viết tiếng Việt của tác giả Hoàng Hồng Minh (HHM) trên tạp chí Tia sáng ngày 16-08-2011[i], ngoài việc đặt ra vấn đề nên đưa thêm mấy chữ cái (ký tự) F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt hay không (điều mà dư luận có ồn lên khoảng tháng nay), tác giả còn bàn thêm hai vấn đề của tiếng Việt: viết tên riêng nước ngoài và viết các từ ghép, từ láy (HHM gọi chung là “từ kép”) trong tiếng Việt.
Tôi xin được trao đổi một số ý kiến với tác giả. Vì không rõ tác giả là ông hay , tuổi tác thế nào nên xin được tạm gọi là bạn, mong tác giả thông cảm.
1. Vấn đề thêm các chữ F, J, W, Z vào bảng chữ cái tiếng Việt
HHM đưa ra một số dẫn chứng về sự có mặt của các chữ cái F, J, W, Z trong văn bản tiếng Việt, ví dụ nóilợn F1; từ A đến Z. Không ai phủ nhận điều đó. Tôi có thể bổ sung thêm hiện tượng trên một cách phong phú hơn nhiều, đó là việc dùng các ký tự F, J, W, Z (và nhiều ký tự khác nữa) để ghi các công thức toán, vật lý, hóa học,… để ghi các đơn vị đo lường, như tính công là J (June), tính công suất là W (Watt),…Và nhất là để ghi tên riêng (gồm địa danh và nhân danh) nước ngoài và các thuật ngữ khoa học có nguồn gốc nước ngoài. Các ký tự đó đã được dùng từ lâu, ngày nay lại càng dùng nhiều hơn. Tuy nhiên việc các ký tự trên có mặt trong văn bản tiếng Việt không có nghĩa là nó đã thuộc về hệ chữ cái tiếng Việt. Dễ nhận thấy điều này khi ngoài những ký tự trên ta còn dùng cả các ký tự khác như  abFegpljm,… để làm các ký hiệu ghi các công thức khoa học, kỹ thuật. Không ai dám nói những ký tự ấy cũng thuộc về chữ cái tiếng Việt. Còn như trường hợp viết tắttrung ương thành TW là viết sai; viết sai nhưng nhiều khi người ta bắt trước nhau mà thành thói quen ở một số người.
Hệ thống chữ cái của chữ Quốc ngữ (QN) là hệ thống chữ cái ghi âm. Nhìn chung mỗi âm tương đương với một chữ cái. (Một số trường hợp không tương đương, như c, k, q cùng ghi âm “cờ”; d, gi cùng ghi âm “dờ” có lý do về nghĩa và về văn hóa). Đưa thêm một chữ cái vào một hệ thống đã có thì nó phải mang chức năng ghi một âm nào đó. Nhưng hệ thống chữ cái của tiếng Việt đã đủ rồi, bây giờ thêm vào hệ thống ấy nó sẽ hoặc là không ăn nhập gì, hoặc là phá vỡ hệ thống. Ví dụ, đã có tổ hợp “ph” để ghi âm “phờ” thì chữ cái “f” sẽ ghi âm gì? Đã có chữ cái “d” và “gi” để ghi âm “dờ” thì chữ cái “z” sẽ ghi âm gì? Còn nếu để thay thế một số chữ cái cũ thì lại hoàn toàn là chuyện khác.
2. Vấn đề viết tên riêng nước ngoài
HHM viết: “Sau những thói quen ban đầu cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được các tên riêng trên thế giới cho bùi tai mình, chúng ta đã vượt được dần ra khỏi cái thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm này”(chúng tôi nhấn mạnh).
 Nếu bạn HHM biết rằng trước khi người Pháp vào Việt Nam, người Việt Nam biết đến thế giới Phương Tây chủ yếu qua sách báo Trung Quốc (hay có tiếp xúc trực tiếp thì cũng phải dùng văn tự Hán để ghi lại) thì chắc không kết luận như trên. Trước khi chữ QN được sử dụng rộng rãi, chúng ta sử dụng chữ Hán, mà dùng chữ Hán thì phải đọc theo âm Hán Việt. Ví dụ, Alexandre de Rhodes thì đọc là A Lịch Sơn Đắc LộPigneau de Behaine đọc là Bá Đa Lộc. Đầu thế kỷ XX, trong phong trào vận động duy tân, các chí sỹ cách mạng Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh và nhiều chí sỹ khác đều tiếp cận với tư tưởng dân chủ tư sản Âu Mỹ thông qua sách báo của phong trào duy tân ở Trung Quốc, cho nên ngay cả khi dùng chữ QN, các tên riêng Ấn Âu vẫn thường được đọc theo âm Hán Việt: Lư Thoa (Rousseau), Mạnh Đức Tư Cưu (Montesquieu), Kha Luân Bố (Christopher Columbus). Một số nhỏ trong cách đọc đó tồn tại đến nay: Anh, Pháp, Mỹ (Hoa Kỳ), Ba Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Thụy Sỹ, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ. Dù bây giờ hầu hết các tên riêng còn lại đều đã đọc theo phiên âm trực tiếp (hoặc như nguyên ngữ) nhưng với các tên riêng trên đã rất quen thuộc nên cũng không cần phải thay đổi. Ai đã biết một chút Anh ngữ thì không khó đồng nhất các tên nước nói trên vớiEngland, France, America, Poland,… Một vài trường hợp phiên âm lại là do sự đề nghị của chính phủ (không chắc là của tất cả người dân) nước ấy, như Úc ® Ô-xtrây-li-a (Australia), Ý ® I-ta-li-a (Italy, Italiana)[ii]. Tuy nhiên trong những trường hợp cụ thể, cách đọc Hán Việt vẫn được dùng: bia Úc, Hội Doanh nhân Việt kiều Úc. Những trường hợp thay bằng phiên âm trực tiếp có cái lý của nó, nhưng những trường hợp vẫn giữ cách đọc Hán Việt cũng có cái lý của nó. Quy luật hàng đầu chi phối ngôn ngữ là tính quy ước (võ đoán). Một khi hình thành thói quen sử dụng của đa số có nghĩa là cộng đồng đã nhất trí như vậy.  
Về các tên riêng Đông Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên), HHM có cách giải thích thật kỳ quặc khi viết:
“Từ bao giờ chúng ta tự cho mình có nghĩa vụ phải chuyển âm Hán Việt các tên riêng Trung Hoa hay Triều Tiên”.
Hay: “Nơi đâu “thân thiện” thì người ta gắng Hán Việt hóa, bằng không thì thôi. Hồng Kông xưa là nhượng địa của Anh nên thôi, không cần gọi là “Hương Cảng”. Các tên riêng ở Đại Hàn cũng khỏi bị cố gắng được Hán Việt hóa nhiều vì “không thân lắm”. Tên riêng của Nhật Bản thì miễn phải Hán Việt hóa (…) Phải học tránh sự thiên vị trong nhận thức”.
Trường hợp các nước Đông Á, ngoài nguyên nhân đã nói trên, còn do lịch sử quan hệ lâu đời của Việt Nam đối với họ. Trung Quốc có nhiều quan hệ nhất do đó hầu như tất cả các tên riêng đều đọc theo âm Hán Việt (sẽ nói rõ hơn ở phần sau). Triều Tiên ít quan hệ hơn cả nên số tên riêng đọc theo âm Hán Việt cũng ít. Còn Nhật Bản thì không phải “miễn phải Hán Việt Hóa” như bạn HHM tưởng đâu. Không ít tên người, tên đất Nhật Bản đọc bằng âm Hán Việt. Lý do là đầu thế kỷ XX, Nhật Bản là tấm gương của Á châu đã giương cao ngọn cờ tự lập tự cường, chơi “ngang ngửa” với Tây Phương. Cụ Phan Bội Châu tìm hiểu nước Nhật qua sách báo Trung Quốc, và rồi chính cụ cùng một số đồng chí của mình đã đưa khoảng 200 thanh niên Việt Nam sang Nhật du học. Do đó chúng ta biết đến một loạt tên người, tên đất Nhật Bản đọc theo âm Hán Việt như Phúc Trạch Dụ Cát(Fukuzawa), Minh Trị (Meiji), Đại Ôi hay Đại Ôi Trọng Tín (Okuma Shigenobu), Khuyển Dưỡng Nghị (Inukai Tsuyoshi), Đông Kinh (Tokyo), Hoành Tân (Yokohama),…
Về tên riêng Trung Quốc, có lẽ chỉ trừ trường hợp Hồng Kông[iii] (Hong Kong) còn thì từ xưa đã đọc theo âm Hán Việt. Nếu bây giờ chuyển cách đọc, xáo trộn hàng ngàn tên người, tên đất là chuyện không đơn giản. Ví dụ:Khổng Tử ® Kongzi , Gia Cát Lượng ® Zhuge Liang, Lý Bạch ® Li Bai, Lỗ Tấn ® Lu xun, Bắc Kinh ® Beijing, Quảng Châu ® Guang Zhou. Các tên người, tên đất Trung Quốc không những có mặt trong các tác phẩm của Trung Quốc đã quen thuộc ở Việt Nam mà trong chính văn chương Việt Nam cũng dùng không ít, như Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm,… chẳng hạn.
Ngay cả các tên riêng Trung Quốc hiện đại nếu bây giờ đọc theo phiên âm La tinh cũng là cả một vấn đề phải cân nhắc kĩ. Vì nó vừa khó khăn (cách đọc phiên âm La tinh với tiếng Trung khác nhiều cách đọc trong các ngôn ngữ Ấn Âu), vừa trái với ngữ cảm thông thường. Đặng Tiểu Bình đọc là Dèng Xiǎopíng (Tung Xéo Pình), Hồ Cẩm Đào đọc là Hú Jǐntāo (Khú Chỉn Thao), vừa khó vừa buồn cười nữa. Chúng tôi đi Trung Quốc vẫn gọi các hướng dẫn viên người Trung Quốc theo âm Hán Việt, ví dụ: Tăng Quốc Vân (Zeng Quo Yun), Đặng Chiêu Thanh (Deng Zhao Qing), Tăng Tiêu Quang (Geng Yao Quang) và thấy như thế là ổn nhiều đường. Nếu cố gọi họ bằng âm Trung Quốc mà không chính xác có thể mang lại điều bất nhã, còn gọi theo âm Hán Việt thì đã có quy tắc, họ cũng nắm rất rõ. Nó khác hẳn trường hợp với người Phương Tây, ta phải cố gắng phát âm đúng như tên của họ.
Nói như vậy để thấy vấn đề ở đây chẳng phải do “thói quen cố hữu lấy mình làm trung tâm”, chẳng hề do “cố gắng mòn mỏi để Hán Việt hóa bằng được”, cũng chẳng phải do “thiên vị” hay “thân thiện” với Trung Quốc hay khối Đông Á hơn, mà thực ra nó là truyền thống văn hóa, là ngữ cảm của người bản ngữ, nghĩa là vấn đề của văn hóa – ngôn ngữ, chứ không liên quan gì đến “ý thức hệ” cả. Truyền thống ở đây đã đóng vai trò tích cực, giữ lại những gì phù hợp, chống “hiện đại hóa” một cách máy móc.
3. Vấn đề viết “từ kép”
Theo HHM, các “từ kép” như sinh vật, phải viết liền lại là sinhvật, và từ đấy cho đến hết bài, tác giả làm gương viết liền tất cả các “từ kép”:
hệthống, nốikết, thaotác, tinhthần họcsinhhiểubiết,chủquan,tiếptục, kiểmtra, nghingờ, nướcngoài, đánhvật, vôđịnh, táchrời, chínhxác, câuchữ, khuyếnkhích, thẩmđịnh, tốcđộ, đọchiểu, tốnkém, lưutrữ, giấytờ, vănbản, điệntử, khókhăn, tấtcả, nguyêndo, xưakia, chúngta, xâydựng, quốcngữ, tưởngnhớ, cônglao, đềxuất, giảipháp, hãnhữu, trườnghợp, gạchngang, hyvọng, quyếttâm, ýtưởng, tuyệtvời, tiếnlên, thốngnhất.
Riêng các từ như từ kép, chữ kép thì khi viết liền, khi viết rời; từ bộ nhớ không thấy viết liền, nhưng theo tôi, đó là những từ có cấu tạo “chặt” hơn nhiều so với từ đọchiểu, nướcngoài, tiến lên mà HHM viết liền.
Khái niệm “từ kép” của HHM không được định nghĩa nên có thể hiểu đó là từ ghép theo thuật ngữ ngành ngôn ngữ học, và cả từ láy, vì bạn viết liền cả từ khókhăn.
Hãy thử phân tích “tác hại” của lối viết rời mà bạn HHM chỉ ra:
1. Thứ nhất, bạn HHM cho rằng viết rời “làm tăng tính mất chính xác của câu chữ”, “khuyến khích tính chủ quan thẩm định”, “làm giảm tốc độ đọc hiểu”. HHM lấy ví dụ:
“Khi bạn đọc câu “Học sinh vật cô Na”, bạn phải cố làm một thao tác tinh thần để nối học sinh thành “họcsinh”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn nghi ngờ được, nhưng chắc không phải thế.
Tiếp đến bạn phải cố làm một thao tác tinh thần khác để nối “sinh vật” thành “sinhvật”, rồi kiểm tra xem có được hay không theo hiểu biết chủ quan của bạn. Bạn thấy được, và bạn tiếp tục kiểm tra câu này, và bạn tự bảo được, chắc là thế”.
(Nhấn mạnh trong nguyên văn)
Hỡi bạn HHM, nếu quả thực người Việt Nam đọc chữ Quốc ngữ theo kiểu mỗi “từ kép” lại phải làm “thao tác tinh thần” như trên thì mỗi cuộc đọc người Việt Nam là một cuộc đấu vật chứ không phải là đọc nữa. Đọc vất vả thế thì chắc thiên hạ đọc được 10 trang, ta chưa chắc nổi một trang, và người Việt Nam chắc chắn phải ngu hơn các dân tộc khác nhiều lần!
Xin nói thêm, những trường hợp như câu Học sinh vật cô Na, người ta gọi là “câu mơ hồ”, vì ngắt ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên nghĩa khác nhau. Loại câu này có số lượng rất ít và trong ngôn ngữ của nước nào cũng có, chứ đâu chỉ có ở tiếng Việt.
Và xin hỏi bạn HHM, việc viết liền các “từ kép” trong đoạn văn của bạn nói trên liệu có chính xác hơn được tí nào so với viết rời không? Có chỗ nào do viết rời mà trở nên mơ hồ nghĩa như câu Học sinh vật cô Na không?
2. Thứ hai, bạn HHM nêu một số hệ lụy khác như “làm tốn kém lưu trữ trên giấy tờ, văn bản hoặc trên các bộ nhớ điện tử”, “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt”.
Về việc “tốn kém” giấy, có thể, nhưng không đáng kể. Chỉ cần quan sát các sách luyện dịch Anh – Việt, Pháp – Việt, ta thấy độ dài các bài ở phần tiếng Việt so với tiếng Anh, Pháp là tương đương nhau (chia cột hay đặt trang song song cũng vẫn thấy như vậy, nếu có ép chữ hay giãn chữ cũng là không đáng kể)[iv]. Vả lại theo phương án viết liền để tiết kiệm giấy của bạn HHM thì cứ 2 “từ ghép” mới thu lại được một khoảng trống, mà số lượng “từ kép”, cũng chỉ chiếm một phần trong kho từ vựng (vì ngoài nó còn các từ đơn và các cụm từ), do đó chẳng bớt được bao nhiêu. Có lẽ 100 trang chưa chắc đã tiết kiệm nổi 1 trang. Còn lưu trong bộ nhớ điện tử thì tiếng Việt có nặng hơn vì có thêm dấu phụ, nhưng với bộ nhớ điện tử, phần nặng hơn đó cũng chả có nghĩa lý gì. Với những máy tính thế hệ cũ nhất, dung lượng chỉ vài GB cũng chẳng bao giờ bị đầy vì các tệp văn bản, huống chi các máy tính phổ biến đang dùng hiện giờ đều trên trăm GB.
Về việc “làm khó khăn cho người nước ngoài học tiếng Việt” thì thử hỏi chữ QN (cũng như tiếng Việt nói chung), để trước hết cho người Việt dùng hay là để cho người nước ngoài mà bạn lại lo vấn đề như vậy? Tiếng Anh được loài người khắp hành tinh học, thế mà người Anh chẳng bao giờ làm gì cho nó dễ đi để các dân tộc khác nhờ; trái lại, tất cả các dân tộc học tiếng Anh đều phải “quy phục” tiếng Anh, từ cách phát âm xa lạ cho đến mọi các quy tắc ngữ pháp rắc rối của nó.
Trở lại về cách viết liền từ. Không phải đến bây giờ mới có bạn HHM đưa ra phương án đó. Nhưng phương án đó không bao giờ thành hiện thực bởi những lý do sau:
Thứ nhất, nó trái với bản chất của tiếng Việt. Tiếng Việt là một thứ tiếng đơn âm. Đơn vị phát âm là âm tiết (tiếng). Ví dụ tiếng hiểu (trùng với từ hiểu), nếu phân tích ra thì có 4 âm tố[v]: (chưa kể thanh điệu):
h- i - ê - u
nhưng chỉ phát âm 1 lần. Ranh giới giữa các âm tố h- i - ê - u không thể nào nhận thấy, dù người thính tai đến đâu. Cách đọc “hờ-i-ê-u-iêu-hỏi-hiểu” chỉ dành cho trẻ em bắt đầu học chữ và giai đoạn đó qua đi rất nhanh, sau đó không bao giờ lặp lại nữa.
Trong khi đó, các tiếng châu Âu là tiếng đa âm, đơn vị phát âm là âm tố. Ví dụ từ understand (hiểu) trong tiếng Anh, ta phải phát âm đầy đủ, kể cả cả âm /d/ở cuối:
Ùndəstænd
Và việc đọc nối các âm tố lại là cần thiết, kể cả khi nó là hai từ khác nhau, như Thank you chẳng hạn.
Thứ hai, ranh giới từ trong tiếng Việt không rõ ràng. Trong nhiều trường hợp, hai yếu tố có quan hệ nghĩa ở một mức độ nào đó không đủ chặt để tạo thành một từ nhưng cũng không đủ lỏng để coi là hai từ, tức là tình trạng “lưỡng khả”: nhà xuất bản là 1 hay 2 từ? trường dạy nghề là 1, 2 hay 3 từ? Nếu coi nhà hàng là một từ thìnhà văn hóa, nhà chung cư có là một từ không? Các trường hợp đồng cỏ, sân kho, trại chăn nuôi, đường thủy, đường mòn, đường độc đạo, đường chiến lược,.. lại càng khó.
Thứ ba, nếu viết liền, việc đọc cũng trở nên khó khăn: không biết ngắt ở chỗ nào, nếu từ ấy chưa quen thuộc với một người (nhất là với trẻ em mới học và người nước ngoài học tiếng Việt): hệthống có thể đọc thành hệt hốngđọchiểu thành đọ chiểu, pháthành thành phá thành, phátâm thành phá tâm. Bạn HHM nhắc đến học giả Hoàng Xuân Hãn đã khởi đầu cho cách viết liền, vậy cần hiểu vấn đề này như thế nào?
Thực ra tiền đề của cách viết liền là cách viết dùng gạch nối đã có rải rác từ đầu thế kỷ XX, tuy nhiên nó không tạo ra được quy tắc. Ví dụ bài Mừng năm mới trên báo Nam Phong số Tết năm 1918, viết gạch nối cho các từ ghép và từ láy: Đinh-tị, Mậu-ngọ, cảnh-tượng, phúc-lộc, thời-kỳ, lăng-lắc, dằng-dặc,… Thế nhưng cũng trong bài báo này, nhiều từ ghép, từ láy lại không gạch nối: nhà nước, khai hoang, ghi chép, hưởng thụ, quý báu, mở mang, lẩn thẩn,… Có khi mâu thuẫn không thể chấp nhận, như viết tàu-thủy (gạch nối) nhưng lại viết xe hỏa(không gạch nối).
Cách viết dùng gạch nối hay viết liền của của Hoàng Xuân Hãn cũng vậy. Trong (lời) Tựa cuốn Danh từ khoa học, xuất bản năm 1942, ông dùng gạch nối cho các từ ghép và từ láy nhưng không nhất quán. Viết tự-điển, khoa-học, danh-từ, tương-đương, cựu-học, chu-đáo, hiếm-hoi, lầm-lỗi,… nhưng lại viết quyết định, nước nhà, bó buộc, bắt bẻ, xưa nay, tóm tắt, may mắn, chậm chạp,… Khi tái bản (1946), trong Nguyên tựa, ông bỏ gạch nối, thay bằng viết liền: khoahọc, danhtừ, pháthành, xuấtbản, thuậntiện, rõràng, dodự,… thế nhưng cũng không nhất quán khi viết giải thưởng, mách bảo, sửa soạn, ít nhiều,… Và rất mâu thuẫn khi viết hàmsố (viết liền), mà lại viết số thương (viết rời).
Hoàng Xuân Hãn là nhà khoa học lớn, có nhiều cống hiến, ai cũng biết thế, nhưng không phải tất cả mọi ý kiến của ông đều đúng. Hơn nữa ấn phẩm trên là một trường hợp hiếm hoi, mang tính đề xuất, thử nghiệm, sau này cũng không thấy ông nhắc lại. Nó không được cuộc sống chấp nhận vì cả tính khoa học (không phù hợp với tiếng Việt – ngôn ngữ đơn âm) và cả tính khả thi (khó xác định ranh giới từ) như đã nói trên.
Chúng tôi muốn đưa thêm ý kiến của một số nhà khoa học về quan hệ chữ  tiếng của chữ QN.
Theo học giả Cao Xuân Hạo, việc dùng chữ QN thực ra là không phù hợp với đặc thù của tiếng Việt. Với đặc thù đơn âm, tiếng Việt thích hợp với thứ chữ mang “diện mạo tổng quát” (gestalt), như chữ Hán chẳng hạn, tức mỗi chữ là một “hình ảnh”, chứ không phải mỗi chữ ghi lại cái chuỗi âm tố mà thực ra thính giác con người không thể nhận ra được. Trong khi các tiếng châu Âu, về nguyên tắc, các âm tố trong từ đều hiển hiện khi phát âm.
Tuy vậy, do nắm được cái đặc thù đơn âm ấy của tiếng Việt nên những người chế tác ra chữ Quốc ngữ đã rất sáng tạo, đó là dùng lối viết rời từng âm tiết. GS. Nguyễn Quang Hồng đã chỉ ra hai đặc điểm của chữ QN trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt[vi], đó là:
– “Nếu như các văn tự Latin khác đều lấy từ làm đơn vị để viết chữ (nghĩa là trong một từ, các chữ cái được viết liền với nhau một mạch), thì ở chữ QN của người Việt Nam đơn vị của một khối chữ tách biệt trong dòng viết là từng âm tiết một, chứ không phải là chỉnh thể từ ngữ”.
– Dùng dấu phụ một cách đậm đặc (vì không liên quan đến vấn đề đang bàn, nên không trình bày ở đây)
Theo Nguyễn Quang Hồng, chữ QN đã kế thừa chữ Hán và chữ Nôm. Chữ QN “tỏ ra rất thuận tiện đối với người bản ngữ”. Và: “Viết rời âm tiết một, chữ QN cất bỏ được một gánh nặng không cần thiết cho người viết chữ vì như thế là khi viết người ta khỏi phải làm cái công việc rắc rối là phân chia lời nói thành các đơn vị từ. Bởi vì đối với tiếng Việt, ranh giới từ ngữ là câu chuyện cực kỳ phức tạp, trong khi đó thì ranh giới âm tiết lại luôn luôn là sự thực hiển nhiên trong lời nói, ai cũng có thể xác định được một cách dễ dàng”.
GS. Nguyễn Quang Hồng viết tiếp: “Viết rời âm tiết và đánh dấu phụ là thành tựu mà những người xây dựng chữ QN đã đạt tới sau một quá trình lựa chọn, sáng tạo cách viết và thâm nhập dần vào bản thân tiếng Việt. Đó quyết không phải là cái gì ấu trĩ, thô vụng, bất cập của chữ Việt Latin so với các hệ thống chữ viết Latin khác. Ngược lại, chính đã không máy móc lặp lại hoàn toàn khuôn mẫu có sẵn, chính sự thoát ly ít nhiều khỏi hình ảnh của chữ viết ghi âm các tiếng châu Âu một cách hợp lý đó (đồng thời kế thừa truyền thống viết rời từng âm tiết một của chữ Nôm  vốn dĩ thích hợp với đặc điểm loại hình của tiếng Việt), đã làm thành một trong những nguyên nhân cơ bản đảm bảo cho công cuộc cải cách chữ viết diễn ra trong quá khứ (từ chữ Nôm kiểu Hán tự chuyển sang chữ QN Latin hoá) dẫn đến thành công một cách vững chắc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX này”.
Chúng tôi muốn nói thêm tác động ở chiều ngược lại: Theo cảm nhận của chúng tôi, với cách viết rời từng âm tiết, chúng ta đã làm biến đổi phần nào chữ viết La tinh. Vốn từ một thứ chữ hoàn toàn ghi âm, các con chữ La tinh khi dùng làm chữ QN đã trở thành một thứ chữ có tính ghi ý (xin nhắc lại, tôi dùng chữ “có tính ghi ý” chứ không phải “ghi ý”). Bởi ta thấy các hiện tượng  sau:
– Quan hệ âm – chữ viết của chữ QN không phải là quan hệ mỗi âm tố  mỗi ký tự (chữ cái) như các tiếng châu Âu, mà là quan hệ mỗi khối âm (âm tiết, tiếng) – mỗi khối chữ (một chữ), giống phần nào với nguyên tắc của chữ Hán, chữ Nôm. Số chữ do đó tương đương với số lượng âm tiết có trong ngôn ngữ. (Nó khác hẳn các tiếng châu Âu: số chữ phải tương đương với số từ vựng). Điều này rất có ý nghĩa khi học chính tả tiếng Việt: không cần chú ý nhiều vào phát âm, ta vẫn hoàn toàn có thể viết đúng chính tả nhờ vào việc nhớ “mặt chữ”, bởi vì số lượng âm tiết – chữ là có hạn, ít hơn rất nhiều số lượng từ vựng. Thực tế, đa số chúng ta viết đúng chính tả là nhờ nhớ mặt chữ.
– Số ký tự (chữ cái) trong một chữ của chữ QN so với tiếng Anh, tiếng Pháp,… là rất ngắn (dài nhất như chữ nghiêng gồm 7 ký tự, tương đương những từ có số ký tự trung bình của tiếng Anh, trong khi tiếng Anh có những từ dài tới 19 ký tự). Cho nên để đọc chữ QN, ta không qua “ráp vần” mà nhận dạng diện mạo tổng quát(gestalt) chữ đó như một hình ảnh thị giác, tức là đọc thẳng từng chữ một. Cũng có nghĩa khi đọc chữ QN, cơ bản là do nhớ mặt chữ.  
–  Còn có thể thấy tính ghi ý qua việc đọc các chữ viết tắt trong tiếng Việt, đó là đọc như khi viết đầy đủ: BS = bác sỹ,GSTS = giáo sư tiến sỹ, HTX = hợp tác xã, XHCN = xã hội chủ nghĩa (chứ không đọc bê ét, giê ét tê ét, hát tê ích-xì, ích-xì hát xê en-nờ). Tức là những chữ cái ở đây hoàn toàn để ghi ý, không liên quan gì đến phát âm nữa. Nó khác hẳn tiếng Anh, đọc từng chữ cái hoặc ráp vần các chữ cái ấy, tức là hoàn toàn theo nguyên tắc ghi âm: BBC = /bi:bi:si:/ (British Broadcasting Corporation, Tập đoàn Truyền thanh Anh), ASEAN = /æsi:æn/ (Association of Southeast Asia Nations, Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á)
Tóm lại, các ý kiến trong bài viết Chuyện viết tiếng Việt của bạn HHM là quá chủ quan và quá vội vàng. Hai ý đầu tuy nhận định không đúng tình hình nhưng từ đó cũng đặt ra được vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Song ý thứ ba –  đề xuất lối viết liền từ thì quả là ấu trĩ. Bạn chưa thấy sự khác nhau cơ bản giữa tiếng Việt và các tiếng châu Âu, cho nên muốn rập khuôn theo cách viết liền từ của các ngôn ngữ châu Âu. Thế nhưng cách viết rời âm tiết trong từ của chữ QN đã là một quá trình tiếp thu có sáng tạo trên cơ sở chữ viết truyền thống và phù hợp với đặc trưng tiếng Việt. Theo tôi, việc dùng chữ cái La tinh nhưng lại ghi rời âm tiết là một sự sáng tạo tuyệt vời của những người chế tác và sử dụng nó, kể từ những người manh nha khởi xướng, như Gaspar do Amiral, Antonio Barbosa, Francesco Buzumi, Francesco de Pina, Cristoforo Borri cho đến người hoàn thiện nó – Giáo sỹ Alexandre de Rhode. Và đặc biệt là công lao của những trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX, những người đã mạnh dạn sử dụng nó, cổ vũ nhiệt tình cho nó, dùng nó thay thế cho chữ Hán (nhập ngoại) và chữ Nôm (chưa hoàn thiện). Cho đến nay, theo tôi, chữ QN đã hoàn thiện, không cần phải thêm bớt, cải tiến gì nữa.  


[ii] Cách dùng I-ta-li-a, Ô-xtrây-li-a phổ biến ở thập kỷ tám mươi, chín mươi, nay có xu hướng quay trở lại dùng Ý, Úc trên các báo và và tạp chí.
[iii] Trước khi trở thành thuộc địa của Anh, Hồng Kông là một bãi đá vô danh, cho nên không có gì lạ khi nó không có trong “bản đồ trí tuệ” của người Việt Nam. Khi thuộc về Anh, Hồng Kông trở thành một trung tâm kinh tế, do đó, tên riêng này đi vào ngôn ngữ các nước theo cách gọi của người Anh là lẽ đương nhiên.
[iv] So với chữ Anh, trên một dòng, chữ Quốc ngữ có nhiều chỗ trống hơn (do viết rời từ) nhưng vì các chữ có độ dài tương đương nhau, không có chữ quá dài hoặc quá ngắn cho nên lại không mất những khoảng trống lớn khi cân dòng như trong chữ Anh. Và do đó tương quan chung lại ngang nhau.
[v] Chúng tôi dùng thuật ngữ âm tố (thể hiện là bộ phận của âm tiết) cho dễ hiểu với đa số bạn đọc, thay vì âm vị, chính xác nhưng khó hiểu hơn.
[vi] Nguyễn Quang Hồng: Đặc điểm của chữ Việt La tinh trong quan hệ với đặc điểm của tiếng Việt, TC Ngôn ngữ số 2-1992.

Sunday 29 April 2012

VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH - Nguyễn Tài Cẩn

Đại Việt hay Đại Cồ Viêt ?


VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH


Nguyễn Tài Cẩn



Gần đây đã có những sự bàn bạc khá sôi nổi xung quanh vấn đề quốc hiệu đời nhà Đinh. Chúng tôi đã được một số bạn bè (1) gửi thư và bài đến hỏi ý kiến. Nhưng chúng tôi chưa có đủ điều kiện để giải quyết triệt để, vậy sơ bộ chỉ xin có mấy lời thưa lại như sau, về phương hướng nghiên cứu.

CÙ hay CỒ ?


Trước hết là về vấn đề chữ CỒ (âm Bạch thoại qú) trong Hán ngữ. Chữ này thuộc vận bộ NGU, nhiếp NGỘ. Theo thống kê của chúng tôi, vận bộ NGU, trong cách đọc Hán Việt, đã cho chúng ta 137 chữ đọc với U, 7 chữ đọc với Ô, 5 chữ đọc với O và 11 chữ đọc với ÂU (2).
Vậy đọc CÙ thì thuận theo đa số.
Nhưng Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh đọc là CỒ trong CỒ NHIÊN và Từ điển Phật học Hán Việt (Kim Cương Tử chủ biên, Hà Nội, 1992, tr.276) đọc là CỒ trong CỒ ĐÀM (Gautama) thì đó cũng là điều đã có tiền lệ. Và cũng dễ hiểu vì sao trước nay quốc hiệu đời nhà Đinh thường cũng được chúng ta quen gọi là ĐẠI CỒ VIỆT.
Trên đây là nói về cách đọc Hán Việt. Còn nói về cách đọc Nôm thì dùng một chữ Hán thuộc vận bộ NGU hay vận bộ MÔ để ghi Nôm vần U, vần Ô đều được cả. Ngay thế kỷ 17 chúng ta đã có những cách ghi như sau :
‒ Dùng vận bộ NGU
- ghi Ô như trong CỖ dùng thanh phù CỤ ;
- ghi U như trong RỦ dùng chữ LŨ ;
‒ Dùng vận bộ MÔ
- ghi Ô như trong NỔ dùng chữ NỖ ;
- ghi U như trong BÚ dùng thanh phù BỐ.

(ĐẠI CỒ) + VIỆT hay ĐẠI + (CỒ VIỆT) ?


Có lẽ nên phân tích ĐẠI CỒ VIỆT thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) chứ không nên phân tich thành (ĐẠI CỒ) + VIỆT.
Xin nói rõ ba lí do như sau đi ngược chiều với (ĐẠI CỒ) + VIỆT :
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ ghi nhầm từ một chữ CỒ đặt theo lối hình thanh, bao gồm nghĩa phù ĐẠI và thanh phù CỒ thì trong các bản Nôm càng cổ càng rất ít khi gặp mô hình cấu tạo ấy. Xưa phần lớn người ta thường dùng lối giả tá, mượn một chữ Hán để ghi một tiếng Nôm đồng âm hay có âm gần gũi. Không phải ngẫu nhiên mà cách viết CỒ = đại+cồ, tự điển chữ Nôm của viện Hán Nôm cũng chỉ mới tìm được trong thơ Tú Xương !
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ là cách ghi một dạng cổ song tiết (kiểu như LA ĐÁ = đá ), hay có tổ hợp phụ âm ở đầu (kiểu như BA LẠI = blái > trái) thì hiện có quá ít tiền lệ về trường hợp Đ...K... ! Trong kinh Phật thuyết... có kỵ húy đời Trần, trên tổng số hơn 100 lần dùng kiểu chữ này cũng chỉ có một ví dụ Đ.. K....mà thôi : đó là cách dùng ĐA KỶ // CƠ ? để ghi tiếng GHE với nghĩa là “nhiều” .(3)
‒ Còn nếu cho ĐẠI CỒ là 2 chữ (một Hán Việt, một Nôm) đồng nghĩa với nhau thì tổ hợp đó cũng đã bị nhiều người phản bác, nghi ngờ.
Trong lúc đó cách phân tích thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) có thuận lợi hơn nhiều. Ít nhất ‒ như dưới đây sẽ thấy ‒ sẽ có hai khả năng có thể đưa ra, ủng hộ nó.

GIẢ THUYẾT I : CỒ VIỆT = nước VIỆT hùng mạnh có vũ khí CỒ


1/ Giả thuyết này, nhìn chung, khá quen thuộc. Theo giả thuyết này thì :
‒ CỒ VIỆT đặt theo mô hình của LẠC VIỆT, ÂU VIỆT, NAM VIỆT, MÂN VIỆT v.v... Còn chữ ĐẠI là thêm vào sau để nhấn mạnh : CỒ VIỆT > ĐẠI CỒ VIỆT là một sự sáng tạo thuộc cùng một kiểu như ĐÔNG Á > ĐẠI ĐÔNG Á trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 vừa qua. Cách sáng tạo này xưa nay khá phổ biến, trong từ ngữ thông thường cũng như trong danh từ riêng. Trong cuốn TỪ HẢI có thể dẫn :
* những ví dụ như : bất kính // đại bất kính ; đa số // đại đa số, hòa thượng // đại hòa thượng...
* rất nhiều tên chỉ các chức vụ như : nguyên soái // đại nguyên soái, tư đồ // đại tư đồ, tư mã // đại tư mã...
* và cả những danh từ riêng như : Nhục Chi // Đại Nhục Chi (quốc danh ở Tây vực), Cô Đường // Đại Cô Đường (địa danh ở Giang Tây), Kim Xuyên // Đại Kim Xuyên (tên sông ở Tứ Xuyên), Thanh hà // Đại Thanh hà (tên sông ở Hà Bắc ) v.v.
2/ Nhưng chúng ta hiện có một số cứ liệu khá quan trọng : như cách gọi CỒ VIỆT trong 2 câu đối cổ, trong Việt sử... tứ tự ca, hay cách gọi tắt CỒ VIỆT thành CỒ trong CỒ KINH, CỒ ĐÔ v.v. ( dẫn theo bài của Nguyễn Anh Huy(4)).Vì vậy chúng ta nên xoáy sâu thêm vào tên gọi CỒ VIỆT này.
‒ Như mọi người đều biết, trước nay giới nghiên cứu thường nêu 2 cách hiểu chính :
* CỒ VIỆT = nước Việt to lớn ;
* CỒ VIỆT = nước Việt thờ CỒ ĐÀM, nước Việt theo Phật giáo ;
‒ Có lẽ, nếu đứng đơn thuần về mặt ngôn ngữ mà xét, thì ít nhiều cách hiểu nào cũng đều có thể gắng gượng bảo vệ được cả :
* Phản bác rằng kết hợp tiếng Nôm với tiếng Hán thì không nên, hay đặt tính từ trước danh từ là sai ngữ pháp thì có thể tạm cãi lại với những ví dụ đã có từ lâu như BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG, NHANH TRÍ, YẾU THẾ hay khả năng tạo từ đang xảy ra trước mắt như NHỚT KẾ, VÔI HÓA...
* Còn phản bác rằng CỒ trong CỒ ĐÀM là một tiếng ngoại lai, nói tắt từ Gautama, không thể đặt trước chữ VIỆT thì cũng có thể phản bác lại bằng cách dẫn khả năng tạo ra những kết cấu hiện có như ION HÓA hay GA PHÓ, KÍP TRƯỞNG...
‒ Nhưng dầu sao, cũng chưa cách hiểu nào trên đây được mọi người hoàn toàn nhất trí. Do vậy, Nguyễn Anh Huy mới đề xuất thêm một cách hiểu thứ ba (4) : CỒ VIỆT = nước Việt hùng mạnh có vũ khí CỒ (CỒ là cây giáo).
Nên chăng là dành ưu tiên cho cách hiểu mới mẻ này ? Bởi vì, với cách hiểu này, CỒ VIỆT không những tránh được các sự phản bác trên kia mà lại còn :
* vừa hợp với thời đại : theo Nam Hải dị nhân, Đinh Bộ Lĩnh có gươm, vậy thời đại nỏ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo ;
* vừa có sự ăn khớp với tinh thần thượng võ, tinh thần tự hào trong các tên gọi VẠN THẮNG VƯƠNG, ĐẠI THẮNG MINH HOÀNG ĐẾ ;
* vừa có sự ăn khớp với cả cấu trúc của tên gọi LẠC VIỆT xa xưa. Xin so sánh
+ LẠC VIỆT = vùng Việt có sản vật quí hiếm : có ruộng LẠC trồng lúa nước ? hay có chim LẠC thường về trú đông ? ;
+ CỒ VIỆT = vùng Việt hùng cường có vũ khí mạnh gọi là CỒ.

GIẢ THUYẾT II : CỒ VIỆT = dạng 2 âm tiết của VIỆT


Chúng tôi cũng xin gợi thêm một giả thuyết : phải chăng, khoảng giữa thế kỉ 10, ở vùng quê hương Đinh Bộ Lĩnh, chữ VIỆT còn được đọc thành Ku/WET nên ĐẠI + VIỆT mới được ghi thành ĐẠI + CỒ / VIỆT ? Giả thuyết này dựa trên lich sử diễn biến của ngôn ngữ nên, đáng lí ra, phải trình bày theo phong cách ngôn ngữ học. Nhưng để tránh quá rắc rối nên chúng tôi chỉ xin chọn vài điểm quan trọng nhất, và gắng viết ra một cách phổ thông, đơn giản nhất.
1/ Chữ VIỆT, cũng như các chữ VI (với nghĩa là “bao vây”), VINH (như trong “vinh quang”), VỰNG (chỉ “vầng khí sáng xung quanh mặt trăng mặt trời”) v.v..., theo giới Hán học, đều thuộc thanh mẫu VÂN. Vào khoảng Đường Tống, thanh mẫu VÂN đã tách ra khỏi thanh mẫu HẠP. HẠP xưa có phụ âm G (đọc theo Quốc ngữ ), còn VÂN thì có một âm H hút vào (5).
‒ Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi :
* có khoảng 10 trường hợp VÂN thuộc khai khẩu (không đứng trước W, không đọc tròn môi ) nên tạm ghi là H ;
* và khoảng 70 trường hợp thuộc hợp khẩu (đọc tròn môi và đứng trước vần mở đầu bằng W) nên tạm ghi là Hu(W).
‒ Với quy ước như trên, có thể nói ở giai đoạn tiếng Hán trung cổ :
* VIỆT có phát âm là HuWET ; VI // VÂY có phát âm là HuWI //. HuWEI
* Nhưng phụ âm Hu hút vào và tròn môi của thanh mẫu VÂN, theo S.A. Starostin, rất linh động, có khi rụng hẳn (6).Khi đó chúng ta chỉ còn lại WET, WI // WEI và chúng sẽ dẫn đến VIỆT, VI // VÂY.
Chuyện bỏ âm đầu, chỉ giữ lại phần sau như vậy đến sau thế kỉ 17 vẫn còn, ví dụ MLỜI bỏ M còn LỜI, TLÍU TLO bỏ T còn lại LÍU LO. Và hiện nay vẫn thế, ví du vay BLEU mà bỏ B, chỉ giữ lại LƠ trong XANH LƠ. Vậy chuyện HuWET đưa đến VIỆT, HuWI //HuWEI đưa đến VI // VÂY là chuyện của một truyền thống đã kéo dài hơn 1.000 năm.
‒ Nhưng Hu cũng có trường hợp không rụng, lại chuyển thành Ku, như trường hợp VÂY đưa đến QUÂY. Trường hợp VỰNG//VẦNG cũng vậy : chúng đưa đến QUẦNG như trong câu tục ngữ QUẦNG HẠN TÁN MƯA... Rõ ràng đã có quá trình KuWEI > KuEI, KuWẦNG >KuẦNG, xóa bỏ yếu tố W ở giữa. Thế kỉ 17, A. De Rhodes cũng cho thấy MLÁC có thể bỏ L, còn MÁC. Và hiện nay chúng ta cũng còn thấy có thể vay CRÈME, bỏ R, còn KEM. Vậy chuyện sản sinh ra QUÂY, QUẦNG cũng đã đi theo một truyền thống có mặt trên 10 thế kỉ.
2/ VIỆT cũng có trường hợp chuyển từ HuWET đến KuWET, nhưng VIỆT không đưa đến QUYỆT theo kiểu của VÂY//QUÂY, VẦNG// QUẦNG. Vì sao ? Đó là vì ‒ theo ngôn ngữ học ‒ chúng ta đã có QUYỆT trong QUỈ QUYỆT, nếu VIỆT còn cho thêm QUYỆT nữa thì gây thêm đồng âm, trở ngại cho việc giao tiếp.
‒ Để bù lại, KuWET sinh ra cách nói CỒ VIỆT. Tiếng CỒ là do phụ âm tròn môi Ku- của từ KuWET được âm tiết hóa mà thành (tức được tách riêng, ghi bằng 1 âm tiết)
‒ Cách làm này cũng giống như TRÔNG, TRỐNG thế kỉ 17 có TL nhưng xưa KL, nên phụ âm đầu K được ghi Nôm thành CÁ, thành CỔ (TRÔNG > CÁ LUNG ở Kinh Phật thuyết ; TRỐNG > CỔ LỘNG ở trên chuông đời Vĩnh Tộ vùng Yên Phong). Hay giống như gần đây, S trong Stalin, KH trong Khrusôp có hồi đã đưa đến hai âm tiết XÍT, KHỜ trong cách phiên âm thành XÍT-ta-lin và KHỜ-rút-sốp. Hoặc, để gần cuộc sống chúng ta hơn nữa, cũng có thể dẫn đến cả chuyện phụ âm C- trong CRÈME đã đưa đến tiếng CÀ trong cách nói CÀ REM mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào trong tác phẩm “Vểnh râu” của mình. Rõ ràng chuyển Ku (trong KuWET) thành CỒ (trong CỒ VIỆT) là một cách làm cũng đã trở thành một mô hình được tuân thủ suốt từ đời nhà Đinh đến nay.
‒ Còn sự tồn tại song song, đồng thời của cả 2 cách nói VIỆT và CỒ VIỆT thì có gây phiền phức gì không ? Xin thưa rằng không ! Bởi vì :
* Nhìn chung, chuyện một chữ gốc Hán mà có đến 2 cách đọc vốn là chuyện bình thường. Hơn nữa chúng ta lại còn có thói quen ‒ còn phổ biến đến tận ngày nay ‒ là trong tiếng thuần Việt, vừa có thể nói CÃI NHÂY vừa có thể nói CÃI CÙ NHÂY, vừa có thể nói ĐI THỌT, vừa có thể nói ĐI CÀ THỌT v.v...
* Mà ở Việt Nam, lối biến một dạng đơn âm thành một dạng song âm như vậy cũng thấy có cả ở từ gốc Hán : trong phần dịch Nôm bản kinh PHẬT THUYẾT chúng ta vừa gặp cả XƯỚNG, XA, KÍNH, THUYẾT vừa gặp cả A XƯỚNG, KHẢ XA, XÁ KÍNH, XÁ THUYẾT ;
* Vậy có khác gì vừa nói cả VIỆT, vừa nói cả CỒ VIỆT !
3/ CHÚ THÍCH THÊM :
‒ Nếu so sánh XA với KHẢ XA, XƯỚNG với A XƯỚNG, KÍNH với XÁ KÍNH, THUYẾT với XÁ THUYẾT chúng ta thấy ở đâu tiền âm tiết cũng chỉ có giá trị ngữ âm : KHẢ ứng với KH // KHa // KHu... ; XÁ ứng với S // Sa // Su... (S đọc X theo Bắc Bộ và quốc tế) ; còn A ứng với một âm tắc thanh hầu ?A // ?U.... Nếu so với cả từ ngữ bản địa thì cũng vậy : VUI lúc ghi BÔI, lúc ghi TƯ BÔI, thêm TƯ chỉ là để phản ảnh âm tiết TA có trong cách đọc cổ TA PUI hiện còn giữ ở Rục. Vậy CỒ trong CỒ VIỆT chắc cũng chỉ có giá trị về ngữ âm như KHẢ, như A, như XÁ như TƯ vừa nói ở trên. Giải thích rằng CỒ có ý nghĩa này, ý nghĩa nọ chắc là chuyện tìm hiểu, phỏng đoán của đời sau.
‒ Chúng ta đã thấy những dạng song tiết được cấu tạo giống như kiểu CỒ VIỆT nhưng có vỏ ngữ âm không giống. Nếu nay muốn có những tiền lệ đọc lên nghe gần gũi hơn thì nên dẫn những ví dụ như :
* CÙ BẤT CÙ BƠ cùng nghĩa với VẤT VƠ. Về âm xin so sánh CÙ BẤT với VẤT ; CÙ BƠ với VƠ.
* Hay so sánh CÙ BÙNG với VỒNG (trong CẦU VỒNG) :
+ CÙ BÙNG có ở trong tục ngữ Sổ CÙ BÙNG lấy thùng mà đựng. SỔ trong A. De Rhodes có nghĩa là “cái mống”.
+ VỒNG có ở trong tục ngữ MỐNG đông VỒNG tây.
VỒNG vốn xuất phát từ chữ HỒNG, cùng một nghĩa như vậy, ở trong tiếng Hán. HỒNG thuộc thanh mẫu HẠP, vốn phát âm là GWONG, nhưng sau chắc cũng đã chuyển thành KuWONG. So sánh chuyện KuWONG (< GWONG ) mà đưa đến CÙ BÙNG // CẦU VỒNG với chuyện KuWET (< HuWET) mà đưa đến CỒ VIỆT thì thấy quả cũng gần gần như nhau ! Còn nếu đọc là CÙ VIỆT thì hai bên lại càng gần nhau hơn nữa !
4/ Nói tóm lại, ý kiến của chúng tôi là :
‒ Chữ VIỆT gốc Hán, vốn có vỏ ngữ âm là HuWET. Nhưng dưới tác động của lối nói năng trong xã hội của người bản địa, nó đã tách đôi đi theo 2 hướng diễn biến khác nhau, đưa đến hai kết quả khác nhau :
* Một hướng diễn biến xẩy ra chung với rất nhiều chữ khác nữa là để rụng mất phụ âm hút vào và tròn môi ở đầu (phụ âm Hu), chỉ còn lưu lại bộ phận WET ở sau. Trường hợp này ta có cách đọc đơn âm là VIỆT.
* Một hướng diễn biến nữa, rất cá biệt, là HuWET chuyển thành KuWET, rồi phụ âm Ku tách ra thành một âm tiết riêng là CỒ, vần WET còn lại vẫn đọc VIỆT. Trường hợp này ta có dạng song âm là CỒ VIỆT.
‒ Hai lối nói VIỆT và CỒ VIỆT không lọai trừ nhau. Thời Đinh Bộ Lĩnh chúng cùng song song tồn tại. Bởp vì xung quanh chúng nó người ta cũng đã có thói quen ‒ lưu đến tận mãi ngày nay ‒ là hay dùng những lối nói nước đôi như CÁI NGOÉO // CÁI CÙ NGOÉO hay như ví dụ CÃI NHÂY // CÃI CÙ NHÂY đã dẫn ở trên kia.
‒ Chắc Đinh Bộ Lĩnh thích lối nói 2 âm tiết nên triều đình ghi quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT. Nhưng lò gạch trong vùng vẫn thích nói gọn nên vẫn ghi là ĐẠI VIỆT(*).
‒ Về sau VIỆT càng ngày càng phổ biến, lấn át hẳn CỒ VIỆT.

Từ ĐẠI CỒ VIỆT đến CỒ VIỆT và đến CỒ...


Còn câu chuyện vì sao sau khi cách đọc đơn âm là VIỆT đã được phổ biến vẫn có tài liệu ghi là CỒ VIỆT hay thậm chí còn ghi tắt là CỒ thì có thể giải thích bằng 2 lí do như sau :
‒ cách viết trong văn tự bao giờ cũng có tính cách bảo thủ, lưu lại vết tích ảnh hưởng lâu dài hơn là cách đọc, cách phát âm ;
‒ và cách ghi của xã hội không phải bao giờ cũng là một cách ghi đơn giản, 100% nhất luật trong mọi hoàn cảnh.
1/ Ví dụ về tính bảo thủ của văn tự :
‒ Như hiện nay, ở phương ngữ miền Bắc chúng ta nói CON GIAI nhưng trong Quốc ngữ vẫn viết CON TRAI ; còn trong chữ Nôm TRAI vẫn viết NAM+LAI hay BA+LAI.
Vậy thì trước kia cũng thế : dầu đã có dạng đơn âm là VIỆT nhưng lúc viết, các thế hệ con cháu về sau có khi vẫn dùng lại dạng cổ song âm là CỒ VIỆT hay thậm chí có khi giữ lại chỉ còn một âm tiết CỒ ở đầu. Gọi tắt tên riêng là một truyền thống. Đầu thế kỉ 20, thời Đông Kinh nghĩa thục, sau khi đã đọc tân thư theo lối người Việt, đã làm quen với những tên xa lạ như MẠNH ĐỨC TƯ CƯU hay như LƯ THOA, các lớp nhà Nho chúng ta vẫn có thể nói đến chủ thuyết của các “ cụ LƯ, cụ MẠNH ”, hoàn toàn theo mẫu của CỒ trong CỒ ĐÔ, CỒ KINH thuở trước !
‒ Chúng ta không nên chê trách cách ghi của các nhà viết sử, các nhà làm câu đối hoặc làm thơ đời xưa.
2/ Ví dụ về cách ghi không đơn giản, nhất luật 100 % :
‒ Như trong cùng một bản giải âm kinh Phật thuyết.....chữ VUI khi ghi bằng BÔI (ví dụ ở trang 13/a), khi ghi bằng 2 chữ TƯ và BÔI viết rời nhau (ví dụ ở trang 46/a), khi ghi bằng cách cọng TƯ với BÔI thành một kí hiệu ghép (ví dụ ở trang 20/a).
‒ Hoặc như gần đây, trong cùng một thành phố, vừa dùng cả tên gọi mới vừa dùng cả tên gọi cũ : THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH // SÀI-GÒN. Các báo SÀI GÒN TIẾP THỊ, SÀI GÒN DOANH NHÂN sở dĩ vẫn giữ lại tên gọi cũ chắc là vì muốn tỏ ra tôn trọng thói quen của quần chúng, tôn trọng một truyền thống đã có từ lâu đời.
‒ Vậy chắc thế kỉ 15 cũng thế : rất có thể Ngô Sĩ Liên vừa viết ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ vừa vẫn tôn trọng tên gọi cũ ĐẠI CỒ VIỆT, tuân theo truyền thống cũ, được bảo toàn trong thư tịch cổ hay trong trí nhớ của dân gian.
3/ Và cũng tất nhiên,đứng trước các cách ghi cổ có khi đời sau đọc lên không thật hiểu và người ta thường đưa ra những cách giải thích khác : đó là giải thích theo cái giới Ngôn ngữ học gọi là từ nguyên thông tục.
Chúng ta hiện chưa biết đâu là cách giải thích đúng theo thực tế lịch sử, đâu là cách giải thích theo từ nguyên thông tục. Chúng ta đang cần phải có một sự dày công nghiên cứu nữa mới mong đưa ra được một ý kiến giải đáp thực sự chắc chắn.. Trước mắt, chỉ mới dám xin nêu lên một số hướng gợi ý, để cùng nhau suy nghĩ, cùng nhau tiếp tục tìm tòi mà thôi.

Nguyễn Tài Cẩn




(1) Chúng tôi đã nhận được bài và/hoặc thư của tiến sĩ Lê Thành Lân (Hà Nội), bác sĩ Nguyễn Anh Huy (Huế) và Phan Văn Thắng, tổng biên tập tạp chí Văn hóa Nghệ An (Vinh). Chúng tôi xin thành thật tỏ lòng biết ơn.
(2) Những cứ liệu thống kê sơ bộ này đều đã được in trong cuốn sách của chúng tôi : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tái bản năm 2000.
(3) Xin xem Hoàng Thị Ngọ : Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Hà Nội,1999.
(4) Xin xem Nguyễn Anh Huy : 1) CỒ VIỆT chứ không phải ĐẠI CỒ VIỆT ; 2) Lộ trình của quốc hiệu CỒ VIỆT.
Bác sĩ Nguyễn Anh Huy đã chú thích đầy đủ về công trình các tác giả đi trước, nên chúng tôi chỉ xin dẫn lại từ bài của bác sĩ.
(5) Theo nhà Hán học nổi tiếng S. A. Starostin, thanh mẫu VÂN có phụ âm H - hút vào, phải ghi bằng kí hiệu khác H - bình thường. Nhưng để tiện cho các bạn đọc không cần đi sâu vào ngữ âm lịch sử, chúng tôi chỉ ghi đại khái, không thêm dấu móc chỉ sự hút vào ở trên kí hiệu h, hoặc tạm không phân biệt cách ghi U đọc theo tiếng Việt với cách ghi U đọc theo tiếng Pháp. Thay vì bảng ghi âm quốc tế, chúng tôi tạm dùng bảng chữ cái Quốc ngữ in hoa. Thanh điệu chúng tôi cũng xin tạm gác, không ghi.
(6) Cũng theo S. A. Starostin, ở thanh mẫu VÂN, trước vần có W, phụ âm rất linh động, có thể khi giữ khi không (Xin xem cuốn Phục nguyên hệ thống âm vị tiếng Hán thời thượng cổ, bản tiếng Nga, Moskva, 1989.
(*) Các cuộc khai quật ở Hoa Lư cho thấy các viên gạch xây dựng đều được làm tại chỗ và mang tên « Đại Việt quốc quân thành chuyên » (chú thích của Diễn Đàn).
Nguồn: Diễn Đàn Forum