Saturday 16 March 2013

Từ hộ chiếu có mặt trong tiếng Việt từ khi nào?



Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:245) giảng hộ chiếugiấy thông hành.
Gustave Hue (1937:388) dịch hộ chiếupasse-port. Cùng lúc đó từ hộ chiếu được ghi nhận trong từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh (2005:345):
護照 Giấy vi-bằng để bảo-hộ cho kẻ lữ khách hoặc hàng hóa chuyên chở (laisser-passer, passe-port) (laissez-passer?)
Ở miền Nam Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975 hộ chiếu thông hành song song tồn tại. Lê Văn Đức (1970a:633) định nghĩa hộ chiếugiấy thông hành.
Trong khi đó ở miền Bắc và sau năm 1975 trên phạm vi cả nước có sự phân biệt rất rõ giữa hộ chiếu và thông hành:
Hộ chiếuthứ giấy chứng minh do cơ quan nhà nước (thường là cơ quan ngoại giao), cấp cho công dân khi ra nước ngoài (Nguyễn Kim Thản, 2005:775)
Giấy thông hànhthứ giấy do cơ quan có thẩm quyền cấp cho công dân, cho phép công dân ấy đi lại ở những nơi nhất định trong nước. (Nguyễn Kim Thản, 2005:683)

Friday 15 March 2013

Chữ Cồ trong quốc hiệu Đại Cồ Việt (An Chi - Petrotimes)


Chữ Cồ trong quốc hiệu Đại Cồ Việt

Học giả An Chi: Chúng tôi đã năm lần nói về chữ “cồ” trong quốc hiệu “Đại Cồ Việt”. Lần đầu tiên là trên Kiến thức Ngày nay số 353 (1-6-2000), chúng tôi đã trả lời ngắn gọn rằng, ở đây, “cồ” không phải là một chữ Nôm nhưng vẫn còn cho rằng nó là âm xưa của chữ Hán 巨, mà âm Hán Việt hiện đại là “cự”, có nghĩa là to, lớn. Lần thứ hai là trên Kiến thức Ngày nay số 599 (1-4-2007), chúng tôi đã nhận xét về ý kiến của Kỳ Quảng Mưu 祁广谋 trong bài “Đại Cồ Việt quốc danh thích”, đăng trên Đông Nam Á tung hoành 东南並纵橫 năm 2000 (tr.35-38), cho rằng cồ là một chữ Hán, có nghĩa gốc là: 1. dáng nhìn sợ hãi; 2. kinh ngạc, lo sợ. Cách giảng trịch thượng, ngu xuẩn này hẳn làm hài lòng bọn bá quyền, bành trướng. Sau khi bác bỏ ý kiến của họ Kỳ, chúng tôi đã chứng minh rằng “cồ” là hình thức nói tắt của Cồ Đàm Ma, họ của Đức Phật Thích Ca, phiên âm từ tiếng Sanskrit Gautama. Vậy Đại Cồ Việt là nước Việt vĩ đại theo đạo Phật. Nhưng có một tác giả là Nguyễn Anh Huy đã chính thức bác chúng tôi và “thách” chúng tôi phải trả lời. Chúng tôi đã trả lời chi tiết trên Đương thời số 4-2009. Đó là lần thứ ba. Lần thứ tư là trên Đương thời số 8-2009, chúng tôi đã bác ý kiến của tác giả Huỳnh Dõng cho rằng cồ  là một chữ Hán, có nghĩa là “núi non lởm chởm, hiểm trở, bao quanh bởi sông nước cuộn trào”. Lần thứ năm là trên An ninh Thế giới số 918 (16-12-2009), chúng tôi đã nhận xét và phản bác ý kiến của tác giả Tạ Chí Đại Trường cho rằng “quốc hiệu Đại Cồ Việt chẳng văn hoa tí nào”.
Lần này là lần thứ sáu. Vừa mới đây, chúng tôi có nhận được từ chuyên gia Hán Nôm trẻ Nguyễn Tuấn Cường đường liên kết trên Facebook để đọc bài “Về quốc hiệu đời nhà Đinh” của GS Nguyễn Tài Cẩn (www.ngonnguhoc.org/, ngày 31-5-2009). Trước khi trình bày rõ quan điểm của mình để trả lời bạn, chúng tôi xin mạn phép phân tích kỹ điểm quan trọng nhất mà chúng tôi không thể đồng ý với giáo sư.
Điểm quan trọng đầu tiên mà chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với GS Nguyễn Tài Cẩn là ở chỗ, ông cho rằng Cồ Việt là “nước Việt hùng mạnh có thứ vũ khí gọi là cồ” (Giả thuyết I). Ngay từ đầu giả thuyết, GS Cẩn đã khẳng định một cách võ đoán rằng “giả thuyết này, nhìn chung, khá quen thuộc”. Nhưng rõ ràng là nó mới được tung ra, cho nên gần cuối đoạn thì chính ông Cẩn đã phải nói rõ rằng đây là một cách hiểu thứ ba do Nguyễn Anh Huy mới đề xuất thêm. Thế là ông đã bất nhất ngay từ đầu. Ông Cẩn đề nghị dành ưu tiên cho cách hiểu “mới mẻ này” vì ba lý do, mà lý do đầu tiên là: “Nó hợp với thời đại: theo Nam Hải dị nhân, Đinh Bộ Lĩnh có gươm, vậy thời đại nỏ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo.”
Đó là lý do đầu tiên của GS Nguyễn Tài Cẩn. Nó bộc lộ sự ngây thơ của một người già dặn. Ông cho rằng cách hiểu thứ ba do Nguyễn Anh Huy đề xuất thêm mới hợp với thời đại vì lý do: Đinh Bộ Lĩnh có gươm nên “thời đại nỏ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo”. Xin thưa rằng, trong Nam Hải dị nhân thì Phan Kế Bính cũng chỉ chép theo truyền thuyết, mà cứ vào truyền thuyết, vận dụng theo “lý thuyết Nguyễn Tài Cẩn” thì Đinh Tiên Hoàng cũng đã bị Thánh Gióng bỏ xa từ hàng ngàn năm trước với roi sắt, ngựa sắt và áo giáp sắt rồi. Cho nên, nếu nói về “thời đại” thì Đinh Tiên Hoàng đã đi thụt lùi, chứ “chuyển thời đại” thế nào được! Huống chi, liên quan đền đời tư của Vua Đinh từ tấm bé cho đến khi lên ngôi hoàng đế, người ta được biết rất nhiều chuyện nhưng, tiếc thay, chẳng có ai từng nghe nói một lần, một lời, đến cái thứ giáo gọi là “cồ”, làm nên quốc hiệu Đại Cồ Việt của ông vua này cả. Giáo, mác, cung, tên, đao, thương, việt, thuẫn, mâu... nói chung, thanh long đao của Quan Công, bát xà mâu của Trương Phi... nói riêng, người ta đều có thể từng nghe nói đến; thậm chí, thanh gươm Damoclès tít bên Tây cũng có người Việt biết đến, riêng cái cây “cồ” làm nên quốc hiệu Đại Cồ Việt thì chẳng ai mảy may nghe nói tới, cho đến khi ông Nguyễn Anh Huy moi nó ra từ từ điển. Nói cho công bằng, không phải trước ông, chẳng ai biết đến cái nghĩa “vũ khí” của chữ cồ ; chỉ là người ta thấy nó không xài được ở đây mà thôi.
Tóm lại, với chúng tôi, mặc dù có cả sự tăng cường về lý luận của GS Nguyễn Tài Cẩn, thuyết “cồ = vũ khí” của tác giả Nguyễn Anh Huy vẫn không thể dùng được. Tại những nguồn thư tịch đã nói, chúng tôi đã phân tích và chứng minh rằng Đại Cồ Việt là một kiểu đặt tên toàn Hán, màCồ Việt là một danh ngữ có cấu trúc cú pháp giống như Âu ViệtLạc ViệtDương ViệtĐiền ViệtMân Việt, v.v… trong đó CồÂuLạcDươngĐiềnMân là định ngữ của ViệtCồ là hình thức nói tắt lần thứ hai của Cồ Đàm Ma, mà hình thức nói tắt lần đầu là Cồ Đàm, họ của Đức Phật Thích Ca, phiên âm từ tiếng Sanskrit Gautama. Vậy Cồ Việt là “nước Việt lấy đạo Phật làm quốc giáo”. Và Đại Cồ Việt là “nước Việt vĩ đại lấy đạo Phật làm quốc giáo”. Quốc hiệu này cho thấy sự sáng suốt của Vua Đinh từ đối nội đến đối ngoại. Về đối nội, sử gia Đào Duy Anh cho biết:
“Đinh Bộ Lĩnh chỉ có thể dựa vào tập đoàn phong kiến tôn giáo là thành phần xã hội có uy tín nhất trong xã hội bấy giờ để duy trì trật tự và kỷ cương. Nhưng trong hai tôn giáo, Phật và Đạo, đều thịnh hành trong dân gian, thì Phật giáo có tổ chức và qui củ vững vàng hơn, có kinh điển và lễ nghi nghiêm trang hơn, chứ Đạo giáo thì chỉ là một mớ phương thuật và mê tín. Về tổ chức cũng như về tinh thần, Phật giáo là yếu tố thống nhất đắc lực nhất thời bấy giờ. Bởi thế Đinh Tiên Hoàng mới lấy Phật giáo làm quốc giáo, định phẩm cấp tăng nhân để giao cho họ lãnh đạo Phật giáo trong toàn quốc (AC nhấn mạnh). Khuông Việt đại sư tham gia triều chính như một vị tể tướng. Các chùa (tự viện) của Nhà nước do các tăng quan trụ trì đều được cấp ruộng làm tự điền. Các tự viện có những đại điền trang không kém gì đại điền trang của bọn vương công đại thần”. (Lịch sử Việt Nam, q. thượng, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.175).
Chủ trương của Đinh Tiên Hoàng về đối nội như thế thật là cực kỳ sáng suốt. Về đối ngoại, ông cũng tinh tế không kém. Ta nên nhớ rằng, đồng thời với nước Đại Cồ Việt thì, nằm dọc theo bờ biển phía nam Trung Quốc thời Ngũ đại Thập quốc (bên Tàu), là nước Nam Hán, tồn tại từ 917 đến 971. Trong năm đầu tiên, Nam Hán được đặt tên là Đại Việt. Đến năm 968, khi quốc hiệu Đại Cồ Việt ra đời thì Nam Hán đã tồn tại được 49 năm còn tên cũ của nó là Đại Việt thì đã bị bỏ từ 48 năm rồi. Nhưng Đinh Tiên Hoàng là một vị vua nhìn xa trông rộng. Ông đâu có quên chuyện quân Nam Hán sang xâm lược nước ta hồi 937 (mà bị Ngô Quyền đánh cho tơi bời trên sông Bạch Đằng). Dã tâm xâm lược của chúng có bao giờ nguội tan. Cho nên, nếu Đinh Tiên Hoàng đặt tên nước là “Đại Việt” thì chẳng hoá ra ông mời chúng sang “đòi lại đất cũ của Nam Hán” hay sao? Sự gian manh của bọn này thì ta còn lạ gì (nhất là nếu ta liên hệ tới tình hình biển Đông hiện nay)! Vì thế nên phải có một định ngữ trước từ Việt của ta để phân biệt với “Việt” cũ của Nam Hán. Đó là chữ Cồ, họ của Đức Phật Thích Ca. Vậy Cồ Việt là nước lấy đạo Phật làm quốc giáo. Đây cũng là một sự thật lịch sử. Đến 1054, khi Lý Thánh Tông đổi Đại Cồ Việt thành Đại Việt thì Nam Hán, tức Đại Việt cũ bên Tàu, đã bị tiêu diệt được 83 năm. Cái nguy cơ làm cho Đinh Tiên Hoàng phải dè chừng, từ lâu đã không còn nữa. Cái thế của nước ta đã khác. Ta nên nhớ rằng năm 1075, Lý Thường Kiệt còn đem quân sang đánh Tống nữa kia mà. Huống chi, tuy đạo Phật vẫn được tôn sùng nhưng bây giờ Nho giáo đã bắt rễ khá sâu trong xã hội Việt Nam, nhất là từ khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long (1010). Chữ Cồ đã xong nhiệm vụ từ đối nội (trong nước, Nho giáo bắt đầu thịnh) đến đối ngoại (không còn sợ họa “đòi đất” vì hai chữ “Đại Việt”).
Hai năm sau khi chúng tôi đưa ra ý kiến trên Kiến thức Ngày nay số 599, ý kiến này đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của chuyên gia Hán Nôm trẻ Trần Trọng Dương trong một bài viết rất chặt chẽ và đầy ắp cứ liệu, nhan đề “Khảo về «Đại Cồ Việt» (Nước Việt - nước Phật giáo)”, đăng trên Tạp chí Hán Nôm, số 2(93) – 2009 (tr.53-75). Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng đây là một cái hướng thực sự đúng đắn cho những ai muốn đi tìm ý nghĩa đích thực của quốc hiệu Đại Cồ Việt.
Thế là chữ Cồ trong Đại Cồ Việt đã hoàn thành sứ mệnh của nó một cách vẻ vang. Nó đã có mặt trong quốc hiệu 86 năm (968-1054), từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thánh Tông, với tư cách là một yếu tố biểu hiện thể chế tôn giáo của nước nhà: nước Việt lấy Phật giáo làm quốc giáo.
A.C

Wednesday 13 March 2013

ĐÓNG GÓP CỦA CỨ LIỆU CHỮ NÔM TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC TỔ HỢP PHỤ ÂM KL, PL\BL, TL VÀ ML (HOÀNG DŨNG)


ĐÓNG GÓP CỦA CỨ LIỆU CHỮ NÔM TRONG VIỆC XÁC ĐỊNH SỰ BIẾN ĐỔI CỦA CÁC TỔ HỢP PHỤ ÂM KL, PL\BL, TL VÀ ML
1. Sự tồn tại của các tổ hợp phụ âm đầu KL, PLBL, TL và ML trong tiếng Việt là điều được khẳng định qua những bằng chứng trực tiếp. Bốn tổ hợp phụ âm sau xuất hiện trong Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes, trong đó BL, TL và ML(1) thể hiện qua các mục từ, còn được nhắc đến trong phần phụ lục, nhan đề “Báo cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh” như sau: “Cũng có đôi khi, nhưng khá họa hiếm, người ta còn thêm L vào với P, thí dụ plàn, douoluere (lăn), người khác thì đọc là làn, không có P”. Còn KL thì không phải như ý kiến của Jemery H.C.S. Davidson: “Bằng chứng về sự tồn tại của chùm này trong tiếng cổ Việt vẫn còn tính chất nghiên cứu (speculative)”(2). Bởi vì KL tồn tại trong tiếng Việt không phải chỉ như sản phẩm của nhà khoa học thông qua các thao tác so sánh, tái lập, mà đã được bắt gặp trên thực tế John Barrow trong cuốn du ký Un voyage à la Cochinchine cho biết năm 1792 ông còn nghe thấy ở Đà Nẵng, trăm được phát âm là klang(3).
2. Chữ Nôm đã phản ánh các tổ hợp phụ âm trên như thế nào? Trả lời câu hỏi này, từ trước đến nay người ta cho rằng có ba hình thức:
a, Ghi lại cả yếu tố thứ nhất lẫn yếu tố thứ hai. Ví dụ: trái viết là cự + lại  hoặc ba + lại 迀.
b, Ghi lại chỉ yếu tố thứ nhất. Ví dụ: trót viết là tốt 卒 .
c, Ghi lại chỉ yếu tố thứ hai. Ví dụ: trên viết là thượng + liên 珕 .
Theo nhiều nhà nghiên cứu, KL và PL chỉ là hình thức cổ, theo thứ tự, TL và BL. Còn sự biến đổi của các tổ hợp phụ âm khác thì ngay từ những năm đầu thế kỷ này đã được xác định như sau: ở phương ngữ Bắc Bộ, BL biến đổi thành GI, TL thành CH, ML thành NH; ở phương ngữ Bắc Trung Bộ và Nam Bộ, BL và TL nhập một thành TR, ML thành L(4). Nếu giới hạn sự biến đổi của các tổ hợp phụ âm đầu vào sơ đồ trên tất sẽ dẫn đến suy luận lôgic các trường hợp (b) và (c) là do hệ thống âm vị tiếng Hán không có tổ hợp phụ âm đầu và do người viết chữ Nôm viết thiếu(5).
3. Tuy nhiên, nếu soát xét lại tư liệu, người ta thấy tình hình có phức tạp hơn, làm cho cách giải thích trên không phải ở trường hợp nào cũng có sức thuyết phục.
3.1. Trước hết, thuộc vào trường hợp (c) có không ít ví dụ chữ Nôm có thể đọc cả hai cách TR và L đều có nghĩa như nhau. Chẳng hạn:
+ lánh 另 đọc tránh hay lánh (cf.tlánh(6))
+ túc + ½ liêu 足寮 đọc trèo hay leo (cf.tlèo)
+ luận 論 đọc là trọn hay lọn (cf.blọn/tlọn)
Thậm chí nhiều chữ Nôm biểu âm bằng L mà căn cứ vào tiếng Việt hiện đại, chỉ có thể đọc với TR, nhưng thực sự đã từng tồn tại hình thức phụ âm đầu L tương ứng(7).
trả từng có cách phát âm khác là lả (cf.blả/tlả), chữ Nôm viết là 呂.
trai-lai (cf.blai/tlai); nam + lai 瞾.
trái-lái (cf.blái); quả + lai 
tràn-làn (cf.blàn); lan 瀾
trau-lau (cf.blau); thủ + lao墹
+ trăng-lăng(8) (cf.blăng); nguyệt + lăng 斏
(trối) trăng - lăng(9) (cf.blăng); mịch + lăng 綾
+ tro-lo (cf.blo); lò 炉
trót-lót (cf.blót); luật 律
trối-lối (cf.blối); khẩu + lỗi 虝
trở-lở (cf.blở); phản + lã 寉
+ trời-lờ (cf.blời); thiên + lệ 
+ trườn-lườn ; thủ + lan 
Như thế, ML rụng yếu tố thứ nhất để chỉ giữ yếu tố thứ hai là hiện tượng không phải cá biệt riêng với ML, mà là chung cho các tổ hợp âm khác. Điều này đã được phản ánh qua cứ liệu chữ Nôm.
3.2. Khảo sát trường hợp (c), cần lưu ý đến hiện tượng TR đọc là T xảy ra ở hàng loạt thổ ngữ ven biển từ Thái Bình đến Thừa Thiên(10); hơn nữa, trong tiếng Việt phổ thông vẫn tồn tại một số các từ song thức TR-T; chẳng hạn: trụt-tụt, trịt-tịt, truột-tuột, tròi-tòi, truốt-tuốt. Do đó, trong những chữ Nôm chúng ta nghĩ dùng T để ghi TR, rất có thể có trường hợp đã ghi một số từ có phụ âm đầu T thực sự. Chữ Nôm viết hỏa + ½ 焠 tôi đọc là tôi hay tui (tôi rèn), mà cũng đọc là trui, cùng nghĩa. Trong được viết là công 工 , trước đây người ta cho “phản ánh dạng cổ của trong là klong”(11). Nhưng thực ra,klong từng rụng yếu tố lỏng, thành công, bằng chứng từ điển Génibrel ghi nhận công hay cuông có nghĩa là trong, công “trong” còn bắt gặp trong tiếng Thái(12). Như vậy có thể chữ Nôm phản ánh đúng đắn sự biến đổi này, chứ không phải trực tiếp dạng klong, cổ hơn. Từ liễn/lẫn viết Nôm là miễn 免. Đào Duy Anh cho rằng “hiện nay có khi còn thấy có người nói nhịu liễn thành miễn(13). Thế hẳn là đã có biến đổi: *mliễn>miễn/liễn. Chữ Nôm viết biến 遍 có thể đọc là bân haylần(14), cho phép suy đoán *blần>bận/lần.
4. Tóm lại, các tổ hợp phụ âm KL, PL/BK, TL và ML ngoài các biến đổi đã xác định ở (2), còn có hai biến đổi khác: rụng yếu tố thứ nhất hay yếu tố thứ hai. Điều này được phản ánh qua một số trường hợp thuộc dạng (a) và (b) đã dẫn(15). Việc tìm kiếm sâu rộng hơn theo hướng giả định này chắc hẳn sẽ cung cấp nhiều cứ liệu chữ Nôm hơn nữa.
CHÚ THÍCH
(1) Trong tổng số 26 từ có tổ hợp ML, Từ Điển Việt-Bồ-La ghi nhận ba từ mlầm, mlặt, mlẽ còn có hình thức mnhầm, mnhặt, mnhẽ, chứng tỏ MNH chỉ là biến thể của ML.Michel Ferlus (“Vietnamien et proto-vietmuong”. ASEMI, VI, 4, 1975, tr.46) do đếm không kỹ, bảo chỉ có 23 từ có ML và chỉ có 2 từ (mlầm, mlẽ) xuất hiện thêm hình thức MNH.
(2) Jemery H.C.S. Davidson: A new Version of Chinese - Vietnamese Vocabulary of the Ming Dynasty, BSOAS, I, 1975, tr. 305
(3) Xem Martine Piat: Un vocabulaire “cochinchinois” du XVI siècle, BSEINS, tome XL IV, N.53 et 4, 1969. “Thứ tiếng Việt, do John Barrow thu thập có lẽ từ một người Hoa nói tiếng Bạch thoại hay phương ngữ Nam Xương, vì không phát âm được âm cuối –m” (ý kiến của Hoàng Thị Châu: Tiếng Việt trên các miền đất nước, Nxb. KHXH, H. 1989, tr.227-228).
(4) Xem Henri Maspéro: Etudes sur la phonétque historique de la langue annamite, lesinitiales. BEFEO, tome XII, 1912,tr.76
(5) Chẳng hạn ý kiến của Hoàng Thị Châu: Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Thông báo khoa học, Tập II, Nxb. Giáo dục, H. 1966, tr.100; Nguyễn Phú Phong: A propos du Nôm, écritute démotique vietnamienne, Cahiers de Linguistique Asie Orientale, Septembre, No4, 1987, tr.51-52; Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981, tr.102.
(6) Các từ có tổ hợp phụ âm đầu dẫn ra ở bài này là lấy từ Từ điển Việt-Bồ-La.
(7) Những từ có phụ âm L dẫn ra trong mục này dưới đây là theo J.F.M. Génibrel (Dictionnaire annamite - francais, Sài Gòn, 1898), trừ khi có chú thích riêng.
(8) Dẫn theo Bửu Cầm: Dẫn nhập nghiên cứu chữ Nôm, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, niên khóa 1964-1965 (ronéo).
(9) Philipphê Bỉnh: Sách sổ sang chép các việc, Viện Đại học Đà Lạt, 1968, tr.83.
(10) Xem thêm Hoàng Thị Châu: Vài nét về sự thay đổi ngữ âm của tiếng Việt trong nông thôn hiện nay (qua kết quả điều tra thổ ngữ ở Vĩnh Linh và Thái Bình), Ngôn ngữ số 4, 1972.
(11) Lê Văn Quán, sđd, tr.109.
(12) Điêu Chính Nhìm và Jean Donaldson, Ngữ vựng Thái-Việt-Anh, Bộ Giáo dục, Sài Gòn, 1970.
(13) Viện Sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, in lần thứ hai, Nxb. KHXH, H. 1976, tr.704.
(14) Xem Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, Tập san Khoa học xã hội, số 3, Paris, tr.2.
(15) Xác định âm trị do chữ Nôm phản ánh không nhất thiết dẫn đến việc phiên âm Nôm phải thay đổi tương ứng. Xem Hoàng Dũng, Nguyễn Tiến Mâu, Đinh Văn Thiện: Một số ý kiến về vấn đề sắc thái ngôn ngữ địa phương và văn bản Lục Vân Tiên, Dương Từ - Hà Mậu, Ngôn ngữ số 4, 1992; Nguyễn Tài Cẩn: Một vài suy nghĩ xung quanh vấn đề đọc Nôm, phiên Nôm, Nghiên cứu Hán Nôm, số 2, 1985.

Lang bạt và lang bạt kỳ hồ (An Chi - Petrotimes)


Lang bạt và lang bạt kỳ hồ

(Petrotimes) - Bạn đọc: Xin ông cho biết, trong tiếng Hán, hai tiếng “lang bạt” và câu “lang bạt kỳ hồ” có nghĩa giống như trong tiếng Việt không? Nguyễn Xuân Phúc (Đồng Nai)
Học giả An Chi: Nghĩa của câu “lang bạt kỳ hồ” [狼跋其胡] trong tiếng Hán hoàn toàn không giống với nghĩa của nó trong tiếng Việt. Đó là câu đầu tiên của một bài ca dao trong “Kinh Thi”, nguyên văn như sau:
1. Lang bạt kỳ hồ, 狼跋其胡、
Tái trí kỳ vĩ. 載疐其尾。
Công tốn thạc phu 公孫碩膚、
Xích tích kỷ kỷ. 赤舄几几。
2. Lang trí kỳ vĩ, 狼疐其尾,
Tái bạt kỳ hồ. 載跋其胡。
Công tốn thạc phu, 公孫硕膚,
Đức âm bất hồ (hà). 德音不瑕?
Sau đây là phần chú thích theo truyền thống về từ, ngữ: – Bạt = đạp lên; – Hồ = miếng da thòng dưới cổ (cái yếm) một vài loài động vật; – Tái = thì, ắt; – Trí = vấp; – Công = chỉ Chu Công; Tốn = khiêm nhường; – Thạc = to lớn; – Phu = đẹp; – Xích tích = giày đỏ trong lễ phục; – Kỷ kỷ = dáng tự tại, đĩnh đạc; – Đức âm = Tiếng tốt; – Hà (đọc “hồ” cho hợp vận) = tì vết.
Nghĩa của mỗi đoạn (cũng theo cách hiểu truyền thống) là: Con sói đạp phải yếm của nó thì lại vấp phải đuôi (Ý chỉ sự lúng túng). Chu Công khiêm tốn về đức độ tốt đẹp của mình nhưng sắc màu đôi hài đỏ (của ông) vẫn rờ rỡ (đoạn 1). Con sói vấp phải đuôi của nó thì lại đạp phải cái yếm (cũng là sự lúng túng). Chu Công khiêm tốn về đức độ tốt đẹp của mình nhưng tiếng tốt (của ông) thì không mảy may bị tì vết (đoạn 2).
Vậy “lang bạt kỳ hồ” chỉ đơn giản có nghĩa là “con sói giẫm lên cái yếm cổ của nó” (nên lúng túng không đi tới được). Ít nhất thì đây cũng là một cách hiểu gần như độc tôn cho đến nay. Nhưng một thân hữu trong giới ngữ học đã nói với chúng tôi rằng trước đây nhà giáo Nguyễn Can Mộng lại giảng khác. Vị giáo sư này đã giảng rằng “lang” là một con vật có hai chân trước ngắn và hai chân sau dài còn “hồ” là một con vật ngược lại, có hai chân trước dài và hai chân sau ngắn nên hai con vật này phải nương tựa vào nhau thì mới cùng nhau đi tới được. Nhưng bất kể lời giảng này có đích thực là của tác giả Nguyễn Can Mộng hay không (?), nó cũng hoàn toàn không phù hợp với chữ nghĩa của câu “lang bạt kỳ hồ”.
Liên quan đến động vật, ta có 5 chữ “hồ”: [狐], [猢], [蝴], [鶘] và [鰗]. Chữ thứ nhất có nghĩa là cáo; chữ thứ hai đi với “tôn” thành “hồ tôn” [猢猻] chỉ một loài khỉ; chữ thứ ba, đi với chữ “điệp” thành “hồ điệp” [蝴蝶] là con bướm; chữ thứ tư đi sau chữ “đề” thành “đề hồ” [鵜鶘] là tên một loài chim còn chữ thứ năm thì đi với chữ “di” thành “hồ di” [鰗鮧] là tên một loài cá. Chẳng có con vật nào có tên đồng âm với tên những con vật trên đây (hồ) mà lại có hai chân trước dài hơn hai chân sau. Huống chi, chữ “hồ” trong câu “lang bạt kỳ hồ” thì lại có tự dạng là [胡], xưa nay chưa bao giờ bị dân Tàu xác định là tên của bất cứ một loài động vật nào.
Nhưng ở bên Tàu hiện nay, một số tác giả đã bày tỏ thái độ đối với cách hiểu truyền thống về câu “lang bạt kỳ hồ”, đặc biệt là về chữ “hồ” mà chúng tôi muốn nhân tiện bàn thêm. Tác giả Trần Lương Dục [陈良煜], GS Đại học Sư phạm Thanh Hải cho rằng, trong câu này, “kỳ” [其] là con mồi bị con sói săn được còn “hồ” [胡] là cổ họng của con vật bị săn (“lạp vật đích hầu lung” [猎物的喉咙]). Chúng tôi cho rằng ý kiến này rất có lý, đặc biệt là nếu xét theo góc nhìn từ nguyên học. Nếu người ta thường nói rằng tiếng Việt còn lưu giữ được nhiều yếu tố Hán cổ đã tuyệt tích giang hồ trong tiếng Hán hiện đại thì đây là một minh chứng rất đẹp cho nhận định đó. “Hồ” [胡] là một chữ hình thanh mà nghĩa phù là “nhục” [月] (đây là “nhục” - không phải “nguyệt”) còn thanh phù là “cổ” [古]. Cái chữ có thanh phù mà âm Hán Việt là “cổ” [古] lại có nghĩa là “cổ (họng)” thì còn gì thú vị cho bằng! Huống chi chuyện đâu có phải chỉ do một mình Trần Lương Dục khảo chứng ra mà còn được ghi nhận trong từ điển trước cả họ Trần nữa. Hình âm nghĩa tổng hợp đại từ điển của Cao Thụ Phiên đã cho cái nghĩa thứ 8 của danh từ “hồ” [胡] là “nhân cảnh viết hồ” [人頸曰胡] (cổ người gọi là “hồ”). Vậy thì ta có thêm một cách hiểu nữa về chữ thứ tư của câu “lang bạt kỳ hồ”: “hồ” là “cổ”.
Về câu này, trên Kiến thức ngày nay số 125 (1/12/1993), chúng tôi đã theo truyền thống mà giải thích như sau:
“Lang bạt kỳ hồ” là một câu trong “Kinh Thi” của Trung Hoa. “Lang” là chó sói, “bạt” là giẫm đạp, “kỳ” là một đại từ thay thế cho danh từ “lang” còn “hồ” là cái yếm da dưới cổ của một số loài thú. Vậy “lang bạt kỳ hồ” là con chó sói giẫm lên cái yếm của chính nó (nên không thể bước tới được). Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng giảng và chú như sau: “Con chó sói giẫm lên cái phần da cổ của nó, lúng túng không biết làm sao. Chỉ sự lúng túng khó xử. Ta lại hiểu là sống trôi dạt đây đó (không rõ tại sao)”.
“Điều mà quyển từ điển trên ghi “không rõ tại sao” chung quy cũng là do từ nguyên dân gian mà ra. Không biết được ý nghĩa đích thực của câu đang xét, người ta đã liên hệ các thành tố của nó với những yếu tố mà mình đã biết: “lang” với “lang thang”, “bạt” với “phiêu bạt”, “hồ” với “giang hồ”, chẳng hạn. Thế là thành ra cái nghĩa “sống lang thang rày đây mai đó”. Chẳng những thế, người ta còn lược bỏ hai tiếng “kỳ hồ” mà nói gọn thành “lang bạt” để diễn đạt cái nghĩa trên đây. Quả vậy, Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi nhận: “lang bạt: sống nay đây mai đó ở những nơi xa lạ”. Nhiều quyển từ điển khác cũng làm như thế vì hai tiếng “lang bạt” đã trở thành một đơn vị từ vựng thông dụng trong tiếng Việt”.
Chúng tôi đã viết như thế trên Kiến thức ngày nay số 125 nhưng xin nhấn mạnh rằng, đó chỉ là một cái nghĩa méo mó so với nghĩa gốc trong tiếng Hán. Trong tiếng Hán thì hai từ “lang bạt” tuy ít được dùng nhưng hễ được dùng thì nó lại có nghĩa là “lúng túng” (“dụ gian nan quẫn bách” [喻艰难窘迫]). Và bất kể ta hiểu chữ “kỳ” và chữ “hồ” theo nghĩa nào trong phạm vi của tiếng Hán thì sang đến tiếng Việt, từ nguyên dân gian đã đưa hai tiếng “lang bạt” và cả câu “lang bạt kỳ hồ” đi xa hàng dặm so với nghĩa gốc của nó trong tiếng Hán.
A.C

Monday 11 March 2013

Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh (Đinh Văn Tuấn - An Việt Toàn Cầu)



Theo chính sử, Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越 do vua Đinh Tiên Hoàng đặt ra vào năm 968 sau khi thống nhất đất nước, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập triều chính, đây chính là quốc hiệu chính thức đầu tiên của dân tộc Việt, của một triều đại chính thống sau khi giành lại độc lập, tự chủ kết thúc giai đoạn 1000 năm đất nước bị Trung Hoa đô hộ. Quốc hiệu Đại Cồ Việt từ trước đến nay là một trong những bí ẩn của lịch sử gây nhiều tranh cãi, đã từng có rất nhiều ý kiến, giả thuyết được đưa ra, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một giả thuyết nào có sức thuyết phục cao, xác đáng theo tinh thần khoa học. Một bài toán hiểm hóc vẫn chưa có lời giải vì thế chúng tôi đã viết bài khảo luận này để cố gắng thử đưa ra một cách giải quyết vấn đề theo một nhận thức mới có khả năng tiến gần sự thật hơn.
I. Khảo sát về chữ cồtrong Quốc hiệu nhà Đinh
A. C là chữ Nôm?
Có lẽ người đầu tiên cho chữ cồtrong Quốc hiệu Đại Cồ Việt大瞿越của nhà Đinh là chữ Nôm xuất hiện vào thế kỷ X là học giả Sở Cuồng Lê Dư đã viết trong Chữ Nôm với Quốc ngữ [Nam Phong Tạp Chí. Tập 30. Số 172. Năm 1932, (tr 496)] như sau: “ Xét ra thứ chữ Nôm có chép ở trong sử, bắt đầu từ chữ Bố Cái Đại Vương là một chứng cứ tượng ra trước nhất, và đến đời Đinh, cũng dụng thứ chữ Nôm, đặt tên nước là Đại Cồ Việt” rồi đến Trần Văn Giáp.trong Lược khảo về nguồn gốc chữ Nôm [Nghiên cứu lịch sử 127. 1969], Đào Duy Anh trong Chữ Nôm. Nguồn gốc – cấu tạo - diễn biến [NXB Khoa học Xã hội 1975] và Lê Văn Quán trongNghiên cứu về chữ Nôm [NXB Khoa học Xã hội. Hà Nội 1981], Nguyễn Khuê trong Những vấn đề cơ bản của chữ Nôm [NXB Thành Phố Hồ Chí Minh 1999]v.v.. các học giả và nhà nghiên cứu Hán Nôm trên đều cho rằng chữ “” là chữ Nôm đọc là “cồ” (nghĩa là to, lớn) và khẳng định chữ Nôm đã xuất hiện vào thời Đinh, thế kỷ X với chữ cồnhư một chứng tích quan trọng. Trước năm 1932 qua thư tịch, quốc hiệu nhà Đinh chưa thấy đặt thành vấn đề gì, có vẻ như đối với các nhà Nho xưa大瞿越là những chữ Hán rất quen thuộc chứ không xa lạ như thời hiện đại. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến luận thuyết về chữ trong quốc hiệu nhà Đinh là chữ Nôm có thể là do sự ngộ nhận về chữgắn liền với âm Hán Việt là “cồ” khởi đầu từ học giả nhưGustave Dumoutier, viết theo âm Hán Việt là “Đại CỒ Việt” trong Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam indépendante 1894 và các học giả tiếp theo viết chữ quốc ngữ thời kỳ đầu như Phan Kế Bính với Nam Hải dị nhân liệt truyện [1912, Thanh Niên tái bản 1999], Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược [1919, Trung Tâm Học liệu tái bản 1971], Đào Duy Anh với Giản Yếu Hán Việt từ điển. [Tiếng Dân. Huế 1932] khiến cho các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm sau này đã dựa vào để gán nghĩa cồ là to, lớn theo cách hiểu hiện đại, chẳng hạn như Đào Duy Anh đã từng viết: “Cồ nghĩa là lớn... Trong Sử ký thấy dùng từ cồ trong tên nước ở thời nhà Đinh là Đại Cồ Việt. Ngày nay ta cũng còn thấy dùng chữ kép đại cồ lồ”[Chữ Nôm, sđd]. Thực ra thì chữ Hán瞿 xưa kia không phải được các nhà Nho Việt đọc theo âm Hán Việt là “cồ” vì theo các bằng chứng chữ Quốc ngữ xưa nhất như:
1- Cours d'histoire annamite/ Trương Vĩnh Ký. Saigon 1875 và bản Quốc ngữ “ Tóm lại về sự tích các đời vua xứ Annam” trong Manuel des écoles primaires ou simples notions sur les sciences. A l’usage des jeunes élèves des écoles de l’administration de la basse-cochinchine (Volume 1)/ Trương Vĩnh Ký. Saigon 1876.
2- Histoire ancienne et moderne de l'Annam, Tong-king et Cochinchine/ L'Abbé Adr. Launay. Paris 1884.
3- Contes et légendes Annamites – A. Landes. Saigon 1886.
4- L'empire d'Annam et le peuple annamite / J. Silvestre (1889)
5- Lược biên Nam-việt sử-ký lịch triều niên-kỷ. Tableau chronologique des Souverains de l'Annam/ Georges Maspero. T'oung Pao, Vol. 5, No. 1 (1894).
6Đại Nam lịch đại ký niên. Chronologie des souverains de l’ Annam/ Albert Schroeder. Paris 1904 (Kho Đông Dương - Thư viện Quốc gia Việt Nam http://dlib.nlv.gov.vn )
7- Đại Nam quốc lược sử - Alfred Schreiner biên soạn, Nguyễn Văn Nhàn dịch. Sài gòn 1905 và Abrégé de l'histoire d'Annam / Alfred Schreiner, Saigon 1906.
8- Annam et Indo-Chine Francaise/ Colonel E Diguet. Paris 1908.
9- Bụt sử lược biên thiệt truyện - Thuật sự tích và lời huyền diệu của Bụt Gaudam( Cù Đàm Bụt) ở xứ Kapilavastu (ca duy la việt quốc)/ G. Ch Tran Chanh phụng dịch. Sai Gon 1913 .
10- Nam Việt lược sử/ Nguyễn Văn Mại, Sai Gon 1919
Tất cả đều được phát âm và viết chữ Quốc ngữ qua sách in ra là “Đại CÙ Việt” (hoặc Đại CỤ Việt), như vậy xét về thời gian, âm đọc “ CÙ ” có trước âm đọc “ CỒ ”, cho đến nay chưa thấy một bằng chứng chữ quốc ngữ nào đã viết quốc hiệu nhà Đinh là “Đại CỒ Việt” trước dấu mốc năm 1875 như tài liệu của Trương Vĩnh Ký đã viết là “Đại CÙ Việt” (xem hình bên trái) nhưng chỉ có Gustave Dumoutier đến năm 1894 mới viết quốc hiệu nhà Đinh là “Đại CỒ Việt”. Xem trong tự vịDictionarium Anamitico-Latinum/P.J. Pigneaux (1772-1773) (bản chép tay) thì âm “cồ”- từ Việt-được ký âm bằng chữ 瞿(viết giản phần đầu) và âm “cù” -từ Hán- lại được viết là瞿 (viết giản phần đầu) nhưng bên dưới lại chính là chữ kèm theo nghĩa của nó, vậy Béhaine đã hiểu瞿 và là một, (xem hình bên phải) và trongDictionarium Anamitico-Latinumcủa J.L. Taberd (1838) và Đại Nam Quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (Sài Gòn 1895-1896) cả hai soạn giả đã không dùng chữ瞿 nhưng lại dùng chữ để ký âm từ cồ, chứng tỏ nếu đương thời chữ Hán có âm Hán Việt là “cồ” dĩ nhiên sẽ lấy ngay để ghi âm CỒ và sẽ không cần dùng chữ cùđể ký âm “cồ” nữa, nghĩa là xưa 瞿, đều có âm Hán Việt là CÙ nên có thể dùng chữ nào cũng được để ký âm, thêm một bằng chứng nữa từ Đại tự điển chữ Nôm [NXB Văn Nghệ TPHCM 1999] của cụ Vũ Văn Kính thì âm “cồ” có 2 tự dạng瞿(viết giản phần đầu), đều dựa vào âm đọc “cù” của 瞿và một chữ Nôm hài thanh có tự dạng kết hợp gồm瞿(ý) + (âm), đáng lưu ý ở phần chỉ âm đã dùng cổ để định âm, phải đọc là cồ chứ không phải là , như vậy rõ ràng chữ Hán xưa có âm Hán Việt là “cù”chứ không phải là “cồ”, có thể nguyên nhân dẫn đến cách đọc biến đổi từ CÙ sang CỒ chính là do sự ngộ nhận của các học giả tiền bối khi tra cứu các tự vị xưa về âm và nghĩa của chữ trong 3 ch Quốc hiệu 大瞿越 (có khi do tâm lý muốn tránh trùng âm với “cù” trong cù lần, con cù dễ làm hạ thấp quốc hiệu) để rồi bắt đầu xuất hiện một định kiến về chữ瞿 đọc là CỒ như cách đọc Hán Việt cũng là chữ Nôm 瞿 có âm đọc là CỒ với nghĩa “to, lớn” và sau này hiện diện đường hoàng trong Giản yếu Hán Việt tự điển (1932) của học giả Đào Duy Anh như sau: CỒ ,大瞿越 Đại Cồ Việt. Quốc hiệu nhà Đinh là大瞿越đã làm đau đầu các học giả, sử gia về cả nghĩa Hán lẫn nghĩa Nôm! Nhưng nếu xưa tiền nhân chỉ đọc大瞿越là Đại CÙ Việt thì chữ cù瞿quả thật gây lúng túng, khó hiểu đối với hậu thế vì chữ Hán cù瞿với các nghĩa chính, thông thường của nó khi ghép vào Đại Cù Việt大瞿越lại có vẻ như chẳng thích hợp, xứng đáng với quốc hiệu một nước, nhất là trong tình hình chữ Hán bị phế bỏ, thì chữ 瞿 “cổ quái” càng trở nên bí hiểm gây ra nhiều tranh luận, suy đoán, ngược lại nếu đọc大瞿越là Đại CỒ Việt lại có phần dễ hiểu hơn với cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn dù Hán Nôm “giao duyên”, dù trùng nghĩa : to – lớn đi nữa, điều quan trọng là vào thời Đinh, chữ Nôm đã xuất hiện với chữ Cồ瞿trong Đại Cồ Việt 大瞿越!
Sự thực 瞿 có phải là một chữ Nôm? Trước hết xét về mặt văn bản, 3 chữ 大瞿越xuất hiện chính thức trong bộ sử lớn triều Lê là Đại Việt sử ký toàn thư(nguyên bản chữ Hán xem trong nomfoundation.orgvà bản dịch của Viện KHXH 1985-1993, NXB KHXH Hà Nội 1993) được biên soạn bằng Hán văn ở Bản Kỷ, Kỷ Nhà Đinh, Tiên Hoàng Đế với đoạn : “建號大瞿越: đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt” và theo sau 3 chữ大瞿越soạn giả không hề ghi chú gì đặc biệt liên quan đến chữ瞿 (xem hình bên phải) và nếu nó là một chữ Hán dùng theo cách hiểu người Việt với âm và nghĩa khác Hán dĩ nhiên sẽ được chú giải cẩn thận. Trong các văn bản chữ Hán xưa vẫn thường thấy có những ghi chú đặc biệt đối với những chữ Hán nào đó có thể gây khó hiểu như trong ĐVSKTT, Bản kỷ, Lý Anh Tông đã từng ghi chép như sau “Điện Tiền Vũ ”Cứt” chứ chẳng phải “Đáí”! (chú giải): Phương ngôn nói chữ Cát Đái là cứt đái” hay trong Lĩnh Nam chích quái (Đinh Gia Khánh chủ biên NXB VH 2001), ở Truyện Phùng Hưng Bố Cái Đại Vương với chú giải về 2 chữ “Bố Cái”: “Tiếng địa phương gọi cha là bố, gọi mẹ là cái cho nên có tên ấy” qua đó, có thể xác nhận chữ 瞿trong大瞿越nguyên thủy chỉ là một chữ Hán thuần túy và hiển nhiên không phải là chữ Nôm. Xét về mặt ý nghĩa, trong tiếng Việt âm “cồ” thời cổ chưa bao giờ được hiểu theo nghĩa to, lớn như trong các tài liệu tự điển, tự vị xưa như sau đây đã chứng minh:
1- Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm / Alexandro de Rhodes (1651) – bản dịch Thanh Lãng – Hoàng Xuân Việt – Đỗ Quang Chính. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội 1991: Cồ, gà cồ: Con gà mái loại cao lớn, con gà đực loại rất to lớn. Loại gà rất thích hợp để chiến đấu. Gà chọi, cùng một nghĩa.
2- Dictionarium Anamitico-Latinum / P.J. Pigneaux (1772-1773): 瞿Cồ, gà cồ: thứ gà to dùng để chọi. (bảndịch Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên) và Dictionarium Anamitico-Latinum / J.L. Taberd (1838)Cồgà cồ : loại gà to dùng để chọi.
3- Dictionarivm Anamitico-Latinum/ J.S Theurel.Ninh Phú 1877: Cồ, gà cồ : loại gà to dùng để chọi (chữ Latinh tạm dịch theo Hồng Nhuệ, Nguyễn Khắc Xuyên – sđd -)
4- Đại Nam Quấc âm tự vị .Tom I. A-L/ Huình Tịnh Paulus Của. Sài Gòn 1895: Cồ: To, lớn - gà cồ: gà to xương, cao lớn.
5- Dictionnaire Annamite-Français / J.F.M. Génibrel (1898)CồGà cồgà chọiCồ hung: quá đỗi. (Tạm dịch)
6- Việt Nam tự điển / Hội khai trí tiến đức, Hà Nội 1931 (Mặc Lâm tái bản 1968) : Cồ . Gồ lên, cộm lên . (Đại Cồ) Việt tên nước ta về đời nhà Đinh. Cồ Đàm tên Phật Thích Ca.
Như vậy đa số các từ thư trên đều chỉ ghi nhận ý nghĩa chính của 2 chữ gà cồ là tên, danh từ chỉmột loại gà có tên gọi là “cồ” với thân hình cao lớn, giống gà chọi nhưng chỉ đến ĐNQÂTV của Paulus Của (xem hình bên phải) mới thấy lần đầu tiên âm “cồ” được giải thích là to, lớn và có thể nói Huỳnh Tịnh Của đã thiếu chính xác khi định nghĩa cồ có nghĩa to, lớn  nhà biên soạn tự vị đã không dẫn ra được một mục từ nào khác thực sự có ý niệm to, lớn ngoài 2 chữ gà cồCũng theo P. Của, ở mục từ Gà, gà trục: cùng nghĩa với gà cồ:gà to xương, cao lớn, vậy không lẽ từ “trục” cũng là “to, lớn”? Đáng ngạc nhiên nhất là VNTĐ (1931) lại không hề biết gì đến tiếng cồ có nghĩa là to, lớn! Càng chứng minh cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn là một ngộ nhận khởi đi từ Huỳnh Tịnh Paulus Của và chỉ bắt đầu xuất hiện sau khi học giả Sở Cuồng Lê Dư từ năm 1932 đã xác nhận  là chữ Nôm có trong quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cồ Việt 大瞿越, từ đó trở về sau đã trở thành một định kiến, ngộ nhận về chữ Nôm đã có từ thời Đinh với chứng tích là chữ cồ. Qua các tác phẩm chữ Nôm xưa, cho đến nay chưa tìm thấy một chữ viết là瞿 ký âm cho tiếng cồ với nghĩa chính xác là to, lớn. Theo Học giả Đào Duy Anh trong Chữ Nôm (sđd) khi giải thích 3 chữ “勉德瞿” có trong Hội thứ 7, Cư trần lạc đạo phú của vua Trần Nhân Tông: “Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo; Mến đức Cồ 勉德瞿kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay” đã cho rằng瞿 là chữ Nôm có âm là cồ và Cồ nghĩa là lớn” nhưng thật ra ở bài phú vua nhà Trần chữ 瞿trong “勉德瞿” là một chữ Hán đọc chính xác theo âm Hán Việt xưa là CÙ chỉ mang sắc thái Phật giáo, CÙ ở đây chính là tên viết tắt của Cù Đàm 瞿, danh xưng Phật Thích Ca hay tượng trưng cho đạo Phật và rất phù hợp với thể đối của phú : Vâng ơn Thánh, hướng về đạo đức Nho giáo và Mến đức ,…hướng về giáo lý nhà Phật (Học giả Hoàng Xuân Hãn, Lê Mạnh Thát cũng đã từng xác nhận Mến đức Cù (Cồ) là Mến đức Cù (Cồ) Đàm), đây cũng chính là một thí dụ rõ ràng về sự ngộ nhận từ Hán sang Nôm qua cách hiểu: 瞿 đọc làcồ theo nghĩa to, lớn. Tiếng cồ không thấy trong tục ngữ, ca dao … tuy trong dân gian cũng thấy nói “ lớn cồ đầu” (lúc nhỏ tôi vẫn nghe mẹ tôi mắng “lớn cồ đầu rồi mà…”) hay các tên gọi động vật như dế cồ, vịt cồnhưng chắc hẳn chỉ là sản phẩm của cách hiểu ngộ nhận cồ là lớn - đầu thế kỷ XX - như trên đã chứng minh.
Tóm lại CỒ theo các tài liệu xưa chỉ là một danh từ, tên gọi của một loài gà chọi có thân hình to lớn, chứ chưa bao giờ thực sự được hiểu như một tính từ có ý nghĩa là to, lớn. Cho nên nếu hiểu Đại Cồ Việt theo kiểu: nước Việt to - lớn dĩ nhiên là một cách hiểu sai lầm khi tạo ra một lối ghép chữ nửa Hán nửa Nôm trùng nghĩa ngây ngô, xa lạ với cấu trúc tiếng Việt vì đúng ra - nếu hiểu cồ là lớn – Quốc hiệu sẽ phải là (Đại) -Việt Cồ hay (Đại) Việt – Cồ chứ không phải là (Đại) - Cồ Việt nhưng trong lịch sử ta chưa bao giờ nghe nói đến tên nước Đại Việt Cồ hay Việt Cồ. Theo tình hình nghiên cứu về nguồn gốc chữ Nôm hiện nay, đa số các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm trong và ngoài nước đều thận trọng dừng lại ở dấu mốc khai sinh chữ Nôm vào khoảng thời Lý – Trần mà thôi. Chính vì thấy cách hiểu chữ cồ瞿(lớn) là không hợp lý, nên học giả Hoàng Xuân Hãn đã cố gắng đi tìm một cách hiểu khác như đã viết trong Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần Lê(phần chú thích(8) trang 1092) [La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn tập III, NXB Giáo Dục 1998]: “Lần thứ hai trong quốc sử thấy chữ mượn âm là quốc hiệu đời Đinh: Đại Cồ Việt大瞿越, chữ Cồ chắc là từ Việt, người ta thường hiểu là lớn. Nhưng ý lớn đã chứa trong chữ Đại rồi. So sánh những âm Cá, Cổ, Cự, Khả, Kẻ thì thấy ý nghĩa âm Cồ là xứ có lẽ hợp lý hơn” Nhưng thực ra không thấy bằng chứng văn tự (Nôm, Quốc ngữ) nào sự ghi nhận cồ là xứ cả. Trước và sau nhà Đinh cũng chưa hề thấy từ cồ được ghép vào tên nước, quan trọng hơn là sự thật, theo phát hiện của chúng tôi - sẽ trình bày phần sau - nhà Đinh chưa bao giờ có danh xưng nước là Đại Cồ Việt nhưng chỉ thông dụng danh xưng nước là Đại Việt mà thôi và vì thế mọi giả thuyết bám vào Đại Cù Việt để chứng minh chữ Nôm cồ(lớn, xứ) có từ đời nhà Đinh, theo quan điểm của chúng tôi là thiếu giá trị thuyết phục.
B. CÙ là chữ Hán:
Như vậy chữ 瞿 trong Quốc hiệu nhà Đinh hiển nhiên không thể là chữ Nôm nhưng chính xác chỉ là một chữ Hán từ nguyên thủy và Đại CÙ Việt大瞿越sẽ chỉ được hiểu đúng theo ý nghĩa Hán văn mà thôi, theo Hán ngữ đại từ điển漢語大詞典Quyển 7 (tr 1261) [La Trúc Phong chủ biên. Hán Ngữ Đại Từ Điển Xuất Bản Xã. 1991]:
 (1) [qú廣韻》其 俱切,平虞,羣.] (Âm Hán Việt: cù)
1- 古兵器名.戟属.(Một loại binh khí cổ như cái kích). 2. 谓植物根、叶旁生横出. (Thực vật) . 3. 瞿昙氏的省称.亦指佛教或与佛教有关的事物. (Gọi tắt tên họ -của Phật- là Cù Đàm, chỉ Phật giáo ). 4. 通“衢”.(Dùng thông với衢cù). 5. 姓. (Tên họ)
 (2) [ jù 廣韻》九遇切,去遇,見.] (Âm Hán Việt: cố)
1. 惊貌;惊视貌. (Vẻ nhìn kinh sợ) . 2. 惊惧. (Sợ hãi)
,:四通八的地方.瞿,通.银雀山汉墓竹簡《孫子兵法.九地》“有地,有重地”按,通行本作“地”(địa điểm thông suốt mọi bề, 瞿cù dùng thông với “衢”. Trong Tôn Tử binh pháp (trúc giản ở mộ Ngân Tước Sơn Hán), thiên Cửu địa ghi: “có thế đất Cù Địa, có thế đất Trọng Địa” theo đó, (地)vẫn thông hành viết là “地”.
Trong Hán Việt tự điển (tr 432) của Thiều Chửu [Đuốc Tuệ. Hà Nội 1942], :
1. Thấy mà nao lòng, nhìn thấy mà rật mình (ngơ ngác), 2. Nhìn như vọ, 3 . Một thứ đồ binh như cái kích. Cũng đọc là chữ cú.
Qua hai từ thư trên ta nhận thấy 瞿không có âm đọc phiên thiết nào là cồ và với tất cả các nghĩa của瞿,sau khi loại bỏ các ý nghĩa không phù hợp khi ghép với quốc hiệu nhà Đinh, theo ý chúng tôi chỉ thấy 2 nghĩa tương đối có khả năng phù hợp với Quốc hiệu Đại Cù Việt đó là :
1.  là tên gọi tắt của Cù Đàm 瞿 - tên họ Phật Thích Ca - tượng trưng cho Phật giáo và Đại Cù Việt lànước Việt lớn theo đạo Cù Đàm - Phật giáo -
2. Xưa瞿 và dùng qua lại lẫn nhau (có thể dẫn thêm Khang Hy tự điển [Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã 1997]):“音衢.義同”(âm , nghĩa đồng với). Chữ Hán theo Nhĩ Nhã, Thích Cung:“四達,謂之衢”,Thuyết Văn : “四達謂之衢”, Khang Hy tự điển:“四達道也” và Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh, Hán Việt tự điển Thiều Chửu cũng đều định nghĩa là con đường thông suốt bốn ngả, vậy Đại Cù Việt là nước Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả .
Nếu Đại Cù Việt là nước Việt lớn theo đạo Cù Đàm xem ra cũng phù hợp với sử sách nói thời Đinh rất sùng mộ đạo Phật và ý nghĩa này đã từng được một số nhà nghiên cứu tán thành như học giả J. De Francis, Giáo sư Nguyễn Khắc Kham, nhà nghiên cứu An Chi, nhà nghiên cứu Hán Nôm Trần Trọng Dương (theo viethoc.org/phorum)…Nhưng xét kỹ lại không hợp lý bởi không thể dựa vào tình hình sùng bái đạo Phật ở thời Đinh để quả quyết Đinh Tiên Hoàng đặt Quốc hiệu chứa đựng chữ Cù (Đàm) tượng trưng cho Phật Giáo, điều này là có thể có và cũng có thể không. Người ta quên rằng theo chính sử Đinh Tiên Hoàng đã từng phong cho Ngô Chân Lưu làm Tăng thốngTrương Ma Ni làm Tăng lục và đồng thời cũng phong choĐạo sĩ Đặng Huyền Quang chức Sùng chân uy nghi chứng tỏ thời Đinh ngoài Đạo Phật ra thì Đạo giáo cũng có tầm ảnh hưởng quan trọng từ dân gian đến cung đình, có thể nói nhà Đinh sử dụng tôn giáo như một kế sách chính trị nhằm an dân và thu phục nhân tâm, hơn nữa vua Đinh đã dùng các cực hình như đặt vạc dầu ở trước điện, cũi hổ để trừng trị tội nhân ngay trước mắt quần thần, các tăng lữ sùng kính Phật giáo là một nghịch lý vì những chuyện này trái với giáo lý từ bi hỉ xả của đạo Phật. Do vậy khó có thể cho nhà Đinh tôn đạo Phật là Quốc giáo được. Thực ra Phật giáo thời Đinh có khuynh hướng nặng về Mật Tông hơn là Thiền Tông như các di vật khảo cổ là các kinh tràng bằng đá được khai quật ở Hoa Lư trong đó khắc bài thần chúPhật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni (Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông đã chứng minh, trong bài viết Về tín ngưỡng cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Thế kỷ X GS. Hà Văn Tấn đã nhận định: Như vậy, những cột kinh tìm thấy ở Hoa Lư là biểu hiện một tín ngưỡng của Mật giáo Trung Quốc. ảnh hưởng của nó đã lan đến Triều Tiên. Và với những phát hiện ở Hoa Lư, ta thấy tín ngưỡng này đã phổ biến ở Việt Nam vào thế kỉ X.” (nguồn: daitangkinhvietnam.org/) và khi tìm hiểu sâu hơn, lại thấy trong kinh điển, giáo lý, ngôn từ của Mật giáo hầu như không dùng đến tên gọi Cù (Đàm) nhưng thường hay dùng nhất là các tôn hiệu, danh xưng như Phật, Thích Ca Mâu Ni, Bột (Đà) hay Thế Tôn, Như Lai... cho nên hiện tượng Cù (Đàm) xuất hiện trong Quốc hiệu Đại Cù Việt của nhà Đinh theo tinh thần Mật giáo là một điều bất hợp lý! Theo cư sĩ Huyền Thanh, một nhà phiên dịch kinh tạng Mật Tông của website mattong.wordpress.com đã nhận xét như sau: “Trong Kinh Điển của hệ Nam Truyền thường nhắc đến tên Cồ Đàm qua các tên gọi là: Đức Phật Cồ Đàm, Sa Môn Cồ Đàm... Hệ Đại Thừa dùng danh xưng Cồ Đàm để chỉ cho lúc Đức Phật còn là Bồ Tát. Kinh Điển của Mật Giáo thì không thấy dùng danh xưng Cồ Đàm Cả hai hệ này thường dùng Hồng Danh Thích Ca Mâu Ni ('Sàkya-muni) để chỉ ĐứcPhật”(trích thư trao đổi của chúng tôi và Huyền Thanh) Lịch sử đã chứng minh ở Trung Hoa thời nhà Đường mặc dù cực thịnh về Phật giáo nhưng về chính trị xã hội, giáo dục lại chịu ảnh hưởng của ý thức hệ Nho giáo và cũng chưa thấy một nước nào ở Châu Á tôn đạo Phật vào hàng quốc giáo đã đặt tên nước mang tên họ, tôn hiệu Phật Thích Ca trước hay sau nhà Đinh. Như vậy có thể kết luận, theo khuynh hướng Phật giáo để lý giải Đại Cù Việt là một giả thuyết thiếu khoa học.
Ngược lại, nếu Đại Cù Việt là nước Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả theo khuynh hướng chính trị xã hội lại tỏ ra thuyết phục, hợp lý hơn hẳn. Theo sử sách, Đinh Bộ Lĩnh sau khi dẹp tan loạn 12 sứ quân, được quần thần xưng là Đại Thắng Minh Hoàng Đế, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập triều nghi mở ra một triều đại chính thống đầu tiên trong lịch sử (Đại Việt sử ký toàn thư đặt nhà Đinh mở đầu Bản Kỷ), một đất nước độc lập, tự chủ sau 1000 năm lệ thuộc Trung Hoa, nước Việt thống nhất, hòa bình giờ đây đã hanh thông, là nơi (đường lớn) thông tứ phương, thể hiện khát vọng sâu xa của một bậc đế vương sau khi thông nhất sơn hà từ đó làm cho nước Việt ngẩng cao đầu, nhìn ra thế giới rộng mở hơn, Đại Cù Việt có thể còn ẩn náu một khát vọng mở rộng đất đai biên cương trong hào quang chói lọi của vị Vạn Thắng Vương. Sử giaLê Văn Siêu vào năm 1964 đã từng viết Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang) theo lối hiểu ngày xưa (*), ấy là cái cao vọng của người không những muốn thống trị mà còn muốn bành trướng thế lực ra tám cõi nữa” [Việt nam văn minh sử cươngVăn minh Đại Việt. Nxb Thanh Niên, tái bản 2004, tr. 55] với lời chú giải (*): Đúng ra phải đọc là CỘ, không đọc là CỒ . Khang Hy tự điển chua cả 2 âm CỘ và CỒ và cắt nghĩa là một chỗ trông thẳng ( trừng thị ). Thiên Nam ngữ lục bản chép tay của trường Viễn Đông bác cổ chép : "Nước xưng Đại Cộ nối dời..." theo sử gia họ Lê đây là cách hiểu của nhà Nho xưa nhưng đáng tiếc là ông đã giải thích sai về chữ cùKhang Hy Tự Điển không có chú âm nào là CỒ hay CỘ mà chỉ có CÙ, CỤ, CÂU, về nghĩa thì "Trừng thị" là trợn mắt trông thẳng chứ không phải là một chỗ trông thẳng như Lê Văn Siêu hiểu, người ta đã đã không chú ý đến chữ Hán cù瞿 xưa dùng thông với  như Khang Hy tự điển đã ghi nhận, sử gia Lê Văn Siêu cũng vậy, ông đã hiểu chữ瞿  với nghĩa “một chỗ trông thẳng” để gượng ép giải thích cách hiểu của cổ nhân: “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang)” nhưng thật ra cần phải hiểu 瞿= và 3 chữ大瞿越sẽ là大越, như vậy quốc hiệu Đại Cù việt của nhà Đinh mới đúng là có nghĩa như trên. Dù sao, thông tin của sử gia Lê Văn Siêu về “lối hiểu của người xưa” đã trở thành một chứng cứ cần thiết cho lập luận thiên về ý nghĩa chính trị xã hội.
II. Sự khai sinh của quốc hiệu大瞿越ĐẠI CÙ VIỆT qua thư tịch xưa:
Trong số những tài liệu chữ Hán xưa nhất còn lại của Việt Nam như (Đại)Việt sử lược, An Nam chí lược, Lĩnh Nam chích quái, Việt Điện u linh, Thiền uyển tập anh hoặc trong các di vật khảo cổ (bia đá, chuông đồng, gạch xây…) và kể cả thư tịch Trung Quốc thời Tống cũng đều không thấy ba chữ 大瞿越 Đại Cù Việt, danh xưng của nhà nước thời Đinh, đáng chú ý là ĐVSL khi viết về Lý Bí (Nam Việt Đế ) vẫn ghi chép về quốc hiệu nhà Tiền Lý là Vạn Xuân nhưng đến nhà Đinh dù đã ghi chép khá đủ về Đinh Bộ Lĩnh nhưng lại thiếu sót một sự kiện quan trọng là không biết gì đến quốc hiệu Đại Cù Việt được vua Đinh Tiên Hoàng đặt ra như ĐVSKTT đã ghi chép! Nhưng không phải chỉ ĐVSL đến ANCL khi ghi chép về nhà Đinh cũng không nói đến và đến cả LNCQ, Đinh Tiên Hoàng ký (sđd) dù soạn giả đã ghi chép kỹ về hành trạng Đinh Bộ Lĩnh từ thơ ấu đến khi làm Hoàng đế, đóng đô ở Hoa Lư, thiết lập triều nghi…thế nhưng lại tuyệt nhiên không biết gì đến quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt! Một sự lãng quên, vì sơ xuất thật phi lý đã xảy ra trong các tài liệu xưa trước ĐVSKTT, quan trọng nhất là lại xảy ra trong chính LNCQ, một tập truyện ghi chép các truyện tích truyền khẩu xưa chứng tỏ ngay cả trong ký ức dân gian xưa, trong truyền thuyết truyền miệng từ đời này sang đời khác đã vắng bóng 3 chữ Quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt và càng chứng minh bản chữ Hán LNCQ còn lại (ký hiệu A1752- TVKHXH) đã được viết ra trước ĐVSKTT vì nếu viết sau chắc chắn soạn giả sẽ bổ sung quốc hiệu Đại Cù Việt vào truyện Đinh Tiên Hoàng rồi. (Trong Dư Địa Chí do Nguyễn Trãi biên soạn cũng thấy nói đến quốc hiệu Đại Cù Việt nhưng vì sách này thuộc bản khắc in sau ĐVSKTT và bị sửa chữa nhiều nên chúng tôi không lấy làm chứng cứ) Tình hình tài liệu chữ Nôm trước ĐVSKTT cũng thế, không tim thấy quốc hiệu Đại Cù Việt nhà Đinh trong thơ văn chữ Nôm. (Tuy trong Thiên Nam ngữ lục, câu 4102: "Nước xưng ĐẠI CÙ nối trời, cũng thấy chữ “瞿” trong tên nước nhà Đinh nhưng theo các nhà nghiên cứu Hán Nôm thì sách này có niên đại khoảng Lê -Trịnh nên cũng chỉ xuất hiện sau ĐVSKTT). Tài liệu duy nhất ghi chép về quốc hiệu nhà Đinh là大瞿越 Đại Cù Việt chính là bộ Đại Việt sử ký toàn thư (Hiện nay còn lưu lại bản khắc in mộc bản Nội Các Quan Bản niên hiệu Chính Hoà thứ 18, triều Lê Hy Tông, năm 1697chúng ta mới thấy quốc hiệu nhà Đinh lần đầu tiên được khắc in trong đoạn văn sau: Bản Kỷ. Đinh Kỷ. Tiên Hoàng Đế: “戊辰,元年(宋開寶元年)帝即位.建大瞿越: Mậu Thìn, năm thứ I [968], (Tống Khai Bảo năm thứ I) Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt”. ĐVSKTT đã căn cứ vào tài liệu thành văn, truyền tích nào để khẳng định nhà Đinh vào năm 968 đã đặt quốc hiệu là Đại Cù Việt? Như trên đã khảo sát các nguồn tài liệu trước ĐVSKTT, toàn bộ đều vắng bóng Đại Cù Việt nhưng chỉ thấy rải rác trong thư tịch, bia đá, chuông đồng các danh xưng nước ta khoảng thời Triệu đến Lý, Trần với các tên nước như Nam Việt, Việt, Nam, Đại Việt,Cự Việt. Ngay chính thời Lý theo chính sử với Quốc hiệu là Đại Việt nhưng trong văn khắc bia đá đời Lý cùng thời lại có 2 tấm bia khắc quốc hiệu khác nhau như Đại Việt quốc đương gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp bi (大 越 國 當 家 第 四 帝 崇 善 延 齡 塔 碑) do Nguyễn Công Bật soạn, niên đại Thiên Phù Duệ Vũ 2 (1121) và Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi minh tự (鉅 越 國 太 尉 李 公 石 碑 銘 序), khuyết danh, niên đại khoảng năm 1159 (theo Bước đầu tìm hiểu những giá trị của văn bia Việt Nam đối với việc nghiên cứu tư tưởng chính trị xã hội nước ta thời phong kiến. Trịnh Khắc MạnhTạp chí Hán Nôm số 2-1998), và văn khắc chuông đồng 天福寺洪鐘銘文Thiên Phúc tự hồng chung minh văncó đoạn khắc tên nước viết chử Hán là Cự Việi巨越 :”道行禪師緣化巨越國Thiền sư Đạo Hạnh đi lạc quyên trong nước Đại Việt)- theo Thiền sư Từ Đạo Hạnh và văn khắc chuông chùa Thiên Phúc – Nguyễn Hữu Vinh dịch và giới thiệu, Thích Thiện Niệm đính chính, nguồn : trangnhahoaihuong.com – như vậy cần phải suy xét lại cho minh bạch về quốc hiệu nhà Lý là Đại Việt có thực là một quốc hiệu chính thức, duy nhất được vua Lý Thánh Tôn vào năm 1054 đặt ra lần đầu tiên như ghi chép của ĐVSKTT: Bản Kỷ. Lý Thánh Tông: “建號曰大越: đặt quốc hiệu là Đại Việt” ? – Hiển nhiên qua các chứng cứ xác thực từ các di vật văn hóa trên lại dẫn đến phủ định chứ không phải là khẳng định! Không có một lý do nào thỏa đáng để biện minh cho hiện tượng một nước có hai quốc hiệu chính thức. Theo khảo sát của chúng tôi, hóa ra từ các triều đại kể từ Triệu đến Ngô, Đinh, Tiền Lê và Lý thì ngoài quốc hiệu Nam Việt và Vạn Xuân đã ghi trong sử sách ra trong thư tịch và các di vật văn hóa (bia, chuông) không thấy có một quốc hiệu chính thức nào khác dù là Đại Cù Việt của nhà Đinh hay Đại Việt của nhà Lý, bằng chứng quan trọng nhất là các viên gạch khai quật ở di chỉ khảo cổ Hoa Lư - Ninh Bình và Hoàng Thành Thăng Long –Hà Nội có đóng in dấu “大越軍城塼Đại Việt quốc quân thành chuyên” gạch xây thành quân sự của nước Đại Việt (xem hình bên dưới) được các nhà khảo cổ học VN xác nhận thuộc niên đạicuối thế kỷ X đầu thế kỷ XI. Về gạch xây thành nhà Đinh, Giáo sư Đỗ Văn Ninh đã nhận định qua bài viếtTìm hiểu vài loại gạch cổ khai quật ở Ba Đình ”(Nguồn:http://www.quehuongonline.vn/VietNam/Home/Dat-nuoc-Con-nguoi/Hoang-thanh-Thang- Long/2005/04/1E0A8257/) như sau: “Trong Hội thảo khoa học về đề tài “Từ Hoa Lư tới Thăng Long”, tôi đã có dịp trình bày một ý kiến: “Chỉ có nước Đại Việt, không có nước Đại Cồ Việt, ý kiến đó dựa vào sự tồn tại khách quan của những viên gạch xây kinh đô có in quốc hiệu “Đại Việt”. Không một người thợ làm gạch nào ở Hoa Lư cả gan dám đổi quốc hiệu thành “Đại Việt” nếu thời Đinh - Lê có quốc hiệu là “Đại Cồ Việt, thật bất ngờ danh xưng “Đại Việt大越” lại được chính thức sử dụng vào triều Đinh và đã trở thành một chứng cứ phủ nhận quốc hiệu Đại Cù Việt như đã từng được ghi chép chính thức trong ĐVSKTT, cũng chính bằng chứng này đã phủ nhận luôn quốc hiệu Đại Việt lần đầu tiên được đặt ra từ triều Lý Thánh Tông theo ĐVSKTT bởi vì nếu thời Đinh có quốc hiệu là Đại Việtdĩ nhiên nhà Lý chỉ sử dụng lại quốc hiệu cũ chứ không phải là đặt tên mới. Cùng với danh xưng nước là “Cự Việt” có trong bia và chuông đời Lý và danh xưng nước là “ Đại Việt” có trong viên gạch xây thành đời Đinh, Tiền Lê đã trở thành chứng tích chắc chắn nhất để chứng minh vào thời Đinh, Lý không hề có một quốc hiệu chính thức nào nhưng chỉ là một trong những tên gọi nước một cách tự phát, tùy ý của vua quan từng triều đại và kể từ nhà Đinh thì quốc hiệu Đại Việt mới được dùng một cách phổ biến suốt trong các triều đại sau như Lý, Trần, Lê, Trịnh, Tây Sơn và chỉ biến mất vào thời nhà Nguyễn.
Những viên gạch Hoa Lư mang tên “Đại Việt quốc quân thành chuyên”đã có sức mạnh làm thay đổi các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh, chẳng hạn như nhà Khảo cổ học, Tiến sĩ Nguyễn Thị Hậu đã từng thử đưa ra một lý giải mới qua bài viết Vật liệu kiến trúc bằng đất nung tại di tích hoàng thành Thăng Long(nguồn: vanchuongviet.org) như sau: “…“Cồ” là một từ tiếng Nôm cũng chỉ sự to lớn... Căn cứ vào chữ in trên những viên gạch xây thành Hoa Lư thì phải chăng, quốc hiệu thời Đinh – Tiền Lê và cả thời Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông chính là Đại Việt (cả hai từ đều là chữ Hán) nhưng trong dân gian thì vẫn phổ biến thói quen nói ghép hai từ Hán – Nôm đồng nghĩa nên gọi là Đại Cồ Việt (tương tự như từ: bông hoa), để rồi sử đời sau làĐại Việt sử ký toàn thư thời Lê ghi lại quốc hiệu theo cách gọi dân gian này và cả sự kiện vào năm 1054, niên hiệu Long Thuỵ Thái Bình năm thứ nhất, vua Lý Thánh Tông “đặt quốc hiệu là Đại Việt” như một sự “xác định lại cách gọi tên nước ta cho đúng?” theo ý chúng tôi TS Nguyễn Thị Hậu đã không thoát khỏi quỹ đạo “chữ Nôm 瞿cồ (lớn) có từ thời Đinh” như chúng tôi dã phê bình ở phần trên, do đó cách lý giải: vì Cồ = Lớn = Đại nên Đại Cồ là một kiểu nói bình dân nên Đại Cồ Việt = Đại Việt cũng không có hy vọng tiến gần sự thật. Một giả thuyết mới khác cũng nảy sinh nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh (trước phát hiện khảo cổ về gạch Hoa Lư) theo quan điểm ngữ âm học lịch sử Hán và Việt do Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đề xuất trong bài viết: Về quốc hiệu đời nhà Đinh (Diendan.org), trước hết GS Nguyễn Tài Cẩn đã gián tiếp phủ nhận chữ Nôm Cồ  (lớn) trong quốc hiệu nhà Đinh大瞿越 Đại CỒ Việt: “nếu cho ĐẠI CỒ là 2 chữ (một Hán Việt, một Nôm) đồng nghĩa với nhau thì tổ hợp đó cũng đã bị nhiều người phản bác, nghi ngờ.” và sau đó đã nghiêng hẳn về lý giải theo Hán âm như tác giả đã tóm tắt ý kiến của mình sau đây: "Chữ VIỆT gốc Hán, vốn có vỏ ngữ âm là HuWET. Nhưng dưới tác động của lối nói năng trong xã hội của người bản địa, nó đã tách đôi đi theo 2 hướng… 1- …để rụng mất phụ âm hút vào và tròn môi ở đầu (phụ âm Hu), chỉ còn lưu lại bộ phận WET ở sau. Trường hợp này ta có cách đọc đơn âm là VIỆT. 2… rất cá biệt, là HuWET chuyển thành KuWET, rồi phụ âm Ku tách ra thành một âm tiết riêng là CỒ, vần WET còn lại vẫn đọc VIỆT. Trường hợp này ta có dạng song âm là CỒ VIỆT.” theo ý kiến của chúng tôi thì lập luận này vẫn chưa đủ chứng lý thuyết phục, đây là một cố gắng biện minh cho 3 chữ ĐẠI CÙ VIỆT xuất hiện trong ĐVSKTT như là một cách viết khác thể hiện cho 2 chữ ĐẠI VIỆT (như đã có trong gạch Hoa Lư), Giáo sư Nguyễn đã quên một điều quan trọng là trước khi lập luận về 3 chữ大瞿越, cần phải chứng minh 3 chữ quốc hiệu nhà Đinh viết trong ĐVSKTT có thật đang tin cậy? Có vấn đề gì không? Nếu thực ra là “Đại Việt” – trong đó Việt được đọc theo cách đọc người Việt thời Đinh là “cồ-việt” vậy làm sao giải thích quốc hiệu Đại Việt theo chính sử do vua Lý Thánh Tông lần đầu tiên đặt ra vào năm 1054? Chẳng lẽ vua Lý không biết gì đến cái song âm: Cù Việt = Việt : Đại Cù Việt = Đại Việt để rồi vua Lý lại tự đặt ra một quốc hiệu mới cho triều đại mình nhưng thực ra lại trùng với quốc hiệu nhà Đinh? Đây là một nghịch lý, khó có thể chấp nhận được. Dù cổ nhân đọc theo giọng Trường An hay giọng bản địa (HuWET hay KuWET) theo một âm tiết hay hai âm tiết đi nữa thì từ xưa đến nay trong thư tịch Hoa, Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm chưa bao giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ cả. Chính vào thời Đinh, trên gạch Hoa Lư đã đóng dấu dòng chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên và trên cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Hoa Lư có khắc những chữ Hán “Nam ViệtVương Đinh …Liễn chỉ được viết bằng một chữ mà thôi! Thế nhưng ở đây tác giả đã cố lái sang tiếng Việt: (CÃI NHÂY vừa có thể nói CÃI CÙ NHÂY, vừa có thể nói ĐI THỌT, vừa có thể nói ĐI CÀ THỌT ), chữ Nôm (trong phần dịch Nôm bản kinh PHẬT THUYẾT chúng ta vừa gặp cả XƯỚNG, XA, KÍNH, THUYẾT vừa gặp cả A XƯỚNG, KHẢ XA, XÁ KÍNH, XÁ THUYẾT) để chứng minh cho cách đọc song âm của chữ  làcồ việt nhưng cách dẫn giải này chỉ đúng với tiếng Việt, chữ Nôm còn vấn đề ở đây lại là tiếng Hán Việt và chữ Hán của 3 chữ Đại CÙ Việt   xuất hiện trong văn bản chữ Hán ĐVSKTT nên không thể phù hợp,điều quan trọng chính là viên gạch Hoa Lư (gạch xây thành của quân đội nhà nước) lại không hề ghi 3 chữ Đại Cồ Việt nếu như thật sự Đinh Tiên Hoàng thích lối nói 2 âm tiết, đây chính là một chứng cứ xác thực đủ để phủ nhận luận cứ của GS Nguyễn Tài Cẩn, nên theo chúng tôi dù với cố gắng vận dụng ngữ âm lịch sử thì tác giả cũng chưa chứng minh thấu đáo, giải quyết được vấn đề quốc hiệu nhà Đinh. Như vậy là có một uẩn khúc khác ở quốc hiệu nhà Đinh từ nguồn tin của ĐVSKTT: Xem kỹ lại trong ĐVSKTT,Quyển thủToàn thư biểu- Biểu dâng sách Đại Việt sử ký toàn thư sử gia Ngô Sĩ Liên đã từng viết như sau: “…Tên gọi Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, soạn thêm Hồng Bàng, Thục Vương là phần Ngoại Kỷ” vậy là Ngô Sĩ Liên đã đặt kỷ nhà Triệu mở đầu Bản Kỷ (như Lê Văn Hưu) chứ không phải là kỷ nhà Đinh và điều này phù hợp với Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo như sau: “…Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập…” nhưng khi xem trong Khảo tổng luậnViệt giám thông khảo tổng luận do Lê Tung biên soạn và đã viết như sau: “…Binh bộ thượng thư Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quán đô tổng tài là Vũ Quỳnh soạn bộ Việt Giám Thông Khảo, chép từ Hồng Bàng thị đến Mười hai sứ quân, tách làm Ngoại Kỷ, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái Tổ Cao Hoàng Đế của quốc triều đại định [thiên hạ] chép làm Bản Kỷ” vàtheo Phạm Công Trứ viết trong Tục biên thư:“Tương Dực Đế năm Hồng Thuận thứ 3 [1511], sai Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan đô tổng tài Vũ Quỳnh soạn Đại Việt Thông Giám”như thế Vũ Quỳnh là người đầu tiên tôn vinh nhà Đinh như là một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ - Nhà nước chính thức đầu tiên của lịch sử dân tộc Việt- Vậy ta có thể nhận định: chính Vũ Quỳnh chứ không phải Ngô Sĩ Liên đã bổ khuyết quốc hiệu nhà Đinh (có thể nói, nếu không đặt nhà Đinh mở đầu Bản Kỷ thì từ Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên cho đến Ngô Sĩ Liên chẳng cần thiết phải tạo ra quốc hiệu nếu như nhà Đinh chưa có) Nhưng tại sao sử gia Vũ Quỳnh lại dùng chữ 瞿 trong大瞿越 một cách bí hiểm như vậy? Theo chúng tôi suy luận thì rất có thể quốc hiệu Đại Cù Việt 大瞿越được sáng tạo ra để tạo ấn tượng khi đọc và nghe có vẻ “cổ quái” trong bối cảnh sương mù của lịch sử thế kỷ X, và cũng có thể vì thấy chữ瞿có trong tên “Cù Quốc” là một trong năm hoàng hậu của vua Đinh như sử sách đã ghi lại (ĐVSL, ĐVSKTT) rồi lại thấy chữ 瞿có ở tên hiệu vua Đinh là “Cù Thành” (LNCQ, tuy chúng tôi chưa tìm ra nguyên bản chữ Hán nhưng chắc hẳn chỉ làhay) có lẽ đã trở thành một “cảm hứng” cho sử gia, lại xét về ý nghĩa của  (=)  con đường thông suốt bốn ngả, đi sâu hơn cù (=) còn thấy ở trong Tôn Tử binh pháp孫子兵法 của Tôn Tử: “九地: 諸侯之地三屬,先至而得天下之眾者,為 衢地”(Vùng đất tiếp cận với ba nước chư hầu, ai đến trước thì nắm được dân chúng trong thiên hạ, đó là thế đất Cù địa) cũnrất xứng hợp với nhà Đinh, một nhà nước chính thống độc lập tự chủ, ngang hàng với nước Đại Tống. Phải chăng với những ý nghĩa trên đây đã hội tụ vào chữ  (瞿=chính là thâm ý của s gia Vũ Quỳnh (dĩ nhiên đã được vua Lê chuẩn y) khi sáng tạo ra 3 chữ Đại Cù Việt 大瞿越: nước Việt lớn rộng mở, thông suốt khắp thiên hạ?
III. Tổng Luận:
Thông qua những khảo sát từ các thư tịch, khảo cổ, tuyền thuyết cùng với sự phê bình các giả thuyết liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh, chúng tôi đã đi đến nhận định: chữ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh là 大瞿越đọc theo âm Hán Việt là “CÙ” chính là một chữ Hán thuần túy. Chữ瞿không nên hiểu như một chữ Nôm với âm đọc là “CỒ” theo nghĩa là lớn, xứ (hay cách đọc bản địa: cồ việt = việt) xuất hiện vào thời Đinh, thế kỷ X vì không hội đủ các chứng cứ xác đáng. Điểm quan trọng là chữ Hán瞿cù đầu tiên cần được hiểu là một cách viết khác thay cho cũng đọc theo âm cù và đồng nghĩa với  (con đường thông 4 ngả). Như vậy Đại Cù Việt大瞿越theo Hán văn hướng về ý nghĩa chính trị, xã hội với tinh thần Nho giáo là nước Việt lớn như con đường thông suốt bốn ngả. Nhưng không giống như những ghi chép của chính sử về quốc hiệu nhà Đinh được đặt ra vào năm 968, sau khi khảo sát các văn bản chữ Hán và các văn khắc (bia đá, chuông đồng) đời Lý- Trần, đặc biệt là những di vật khảo cổ thế kỷ thứ X chúng tôi đã phát hiện ra được một thực trạng vềquốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt大瞿越chưa từng hiện hữu trong lịch sử nhà Đinh vào năm 968nhưng chỉ xuất hiện trên văn bản khắc in chữ Hán của ĐVSKTT, theo quan điểm của chúng tôi, những soạn giả bộ sử này đã cố ý tạo ra một quốc hiệu mới cho nhà Đinh trước tình hình nhà Đinh theo các tài liệu còn lại không thấy nói gì đến quốc hiệu mà một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ là nhà Đinh tất nhiên phải có, với phát hiện của chúng tôi thì chính xác vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) danh xưng nước Đại Cù Việt do chính sử gia Vũ Quỳnh sáng tạo ra khi biên soạn bộ Việt Giám Thông Khảo sau đó đã chính thức du nhập vào ĐVSKTT - chứ không phải là sử gia Ngô Sĩ Liên, soạn giả chính yếu của ĐVSKTT - Đại Cù Việt 大瞿越chỉ là chữ Hán thuần túy theo khuynh hướng chính trị xã hội Nho giáo chứ không phải được hiểu theo ý nghĩa tôn giáo (đạo Phật). Sự thật nhà Đinh không có quốc hiệu Đại Cù Việt大瞿越, mà chỉ có danh xưng nước là Đại Việt大越 cũng không phải là một quốc hiệu chính thức như đã trình bày ở trên, nói chođúng chỉ có thể gọi là một danh xưng nước phổ biến khởi đi từ quốc hiệu (Nam)VIỆT của nhà Triệu, sau đó thường được các triều đại kế tiếp lấy làm danh xưng nhà nước như các tên gọi Việt, (Đại) Việt, (Cự) Việt,trong đó danh xưng Đại Việt đã được sử dụng rất phổ biến từ Đinh, Tiền Lê đến Lý, Trần, Hậu Lê về sau. Rất có thể trước khi bộ ĐVSKTT ra đời, các sử gia, văn nhân do tình trạng thiếu thốn tài liệu nên trong các tác phẩm của họ đều không biết đến danh xưng nước thường dùng vào thời Đinh là “Đại Việt” vì thế đã tạo nên một khoảng trống về quốc hiệu nhà Đinh để rồi do quan điểm lịch sử của mình, sử gia Vũ Quỳnh đã quyết định sáng tạo nên quốc hiệu nhà Đinh từ “hư vô” cho xứng với một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ và 3 chữ Đại Cù Việt大 瞿 越đã được khai sinh bắt đầu từ đấy. Hy vọng với những khảo cứu, luận chứng trên của chúng tôi về quốc hiệu nhà Đinh sẽ là một nhận thức mới góp phần giải quyết một nghi án bí ẩn của lịch sử gây nhiều tranh luận từ bấy lâu nay.
Biên Hòa, ngày 05 tháng 10 năm 2010
Tạp Chí Xưa & Nay số 368, 369

Chú thích chung:

Bài viết này là sự tổng hợp, đúc kết từ những tìm hiểu, ý kiến, phát hiện của chúng tôi trong các cuộc thảo luận rải rác trong Diễn đàn Viện Việt Học liên quan đến vấn đề quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt: Thắc mắc về chữ Nôm cồ http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,32675,page=1Đại Cồ Việthttp://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,39577Khảo về “Đại Cồ Việt” - Nước Phật giáo lớnhttp://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,40618. Nhân đây chúng tôi xin ghi nơi đây lòng biết ơn sâu sắc với tất cả mọi người (Huong Ho, Khúc Thần, Nguyễn Cung Thông, Lê Bắc, Nguyễn Hữu Vinh, NguyYen, Nguyễn.Ng, Gocle, Marcophily, Trần Trọng Dương, Nguyễn Thị Hậu, Nguyễn Anh Huy…) đã tham gia thảo luận, góp ý – trực tiếp hay gián tiếp - và có những gợi ý, chỉ dẫn quan trọng…với chúng tôi trong DĐVVH. Đặc biệt là đối với sự giúp đỡ của anh Huong Ho (Nguyễn vinh Quang) đã tốn công giúp đỡ tìm ra các tài liệu xưa quý hiếm liên quan đến Đại Cù Việt gồm: 1- Cours d'histoire annamite - Trương Vĩnh Ký - Saigon 1875, 2- Histoire ancienne et moderne de l'Annam, Tong-king et Cochinchine - L'Abbé Adr. Launay - Paris 1884. 3-Contes et légendes Annamites – A. Landes. Saigon 1886. 4- Abrégé de l'histoire d'Annam / Alfred Schreiner, Saigon 1906. 5- Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam indépendanteGustave Dumoutier 1894 và của Cư sĩ Huyền Thanh đã trao đổi, góp ý quan trọng về vấn đề kinh điển Mật Tông liên quan đến danh hiệu Cồ Đàm; xin cảm ơn những sự giúp đỡ tận tình của các anh: Tôn Thất Thọ với bản chụp trích đoạn sách Đại Nam quốc lược sử - Alfred Schreiner -Nguyễn Văn Nhàn. Sài gòn 1905, Nam Việt lược sử Nguyễn Văn Mại, Sai Gon 1919 cùng sự góp ý cần thiết của anh nhằm giúp hoàn chỉnh bài viết này; của Lê Tuấn Anh với bản pdf Chữ Nôm với Quốc ngữ. Sở Cuồng Lê Dư. Nam Phong Tạp chí T30, số 172 1932, của NNT và Khúc Thần (DĐVVH) với bản pdf sao chụp từ bản chép tay tự vị Dictionarium Anamitico-Latinum / P.J. Pigneaux (1772-1773)của Nguyễn Cung Thông với thông tin về sách Lược Khảo Vấn Ðề Chữ Nôm Trần Văn Giáp (Lê Văn Ðặng thực hiện văn bản). USA..Ngày Nay. 2003. Xin cảm ơnMarcophilyBacleTS Nguyễn Thị HậuThu Hà (Ban biên tập trang mạng Bảo Tàng Lịch Sử VN), đã cung cấp các thông tin khảo cổ, hình ảnh về gạch Hoa Lư, Thăng Long. Cuối cùng là ngoài các tài liệu tham khảo đã ghi chú rõ trong bài viết ra còn có những tài liệu sử học, từ thư (chữ Hán, Nôm, Pháp, Việt…) khác chúng tôi đã tham khảo từ các hình ảnh, bản pdf sao chụp từ nguyên bản do các website đăng tải phổ biến: Guoxue.com, zh.wikisource.org, Nomfoundation.org, Archive.org, Gallica.bnf.fr, Books.google.com, Persee.fr, Jstor.org, Songhuong.com.vn, Trangnhahoaihuong.com. Nếu còn có gì sơ sót xin mọi người lượng thứ.
Trao đổi với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường
về bài viết
Vấn đề Quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT
Đinh Văn Tuấn
Vừa qua nhân đọc bài viết Vấn đề Quốc hiệu ĐẠI CỒ VIỆT của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường (TCĐT) đăng trong Tạp Chí Xưa & Nay số 386, tác giả đã góp ý và phê bình tôi, là tác giả của bài viết Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh (Tạp Chí Xưa & Nay số 368-369). Trước hết xin chân thành cảm ơn nhà sử học và nay xin trân trọng phúc đáp và trao đổi với TCĐT như sau:
1. “ Ngờ rằng ông ĐVT biết “bạo” về chữ Hán, vì thấy ông dẫn “gạch….có đóng dấu “kiến quốc hiệu viết đại Việt” mà lại được ông chuyển qua là “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (số 369, trang 7 cuối cột 1 đầu cột 2!)” [TC Xưa & Nay số 386 trang 32 , cột 3]
Đúng là nhà sử học Tạ Chí Đại Trường đã tìm ra một lỗi chữ Hán trong bài viết Nhận thức mới về Quốc hiệu nhà Đinh nên đã chỉ trích, mỉa mai về trình độ chữ Hán của tôi với độc giả. Nhưng thật đáng tiếc, TCĐT đã quá vội vàng nên mắc sai lầm! Đây là lỗi chữ Hán (cùng vài lỗi khác nữa) do sơ xuất từ khâu biên tập và ấn loát của Tạp Chí Xưa & Nay chứ không phải là từ bài gốc gửi đăng của tôi, sau đó tôi đã đề nghị TC Xưa & Nay đính chính lại và đã được đăng vào TC Xưa & Nay số 375 tháng 3-2011, trang 35 như sau: Trang 7, cột 2, dòng 1: “建號曰大越”xin đọc lại là: “大越軍城塼” nay xin thanh minh với nhà sử học và độc giả.
2. “…Ông ĐVT khi bàn bạc có thể dẫn NTC, Hoàng Xuân Hãn (dù là để bài bác) nhưng không nên dẫn, ví dụ Lê Văn Siêu chẳng hạn…có vẻ việc dẫn LVS là do cùng tâm ý đối với lịch sử Việt nam, như khi tìm ra nghĩa một chữ cù khác nhưng cũng có thể thấy rõ một phần vì đó mà tác giả đã đưa ra các chứng dẫn thiếu sót, tự mâu thuẫn” [TC Xưa & Nay số 386 trang 32 , cột 2]
Việc nhà sử học TCĐT có ác cảm, chê bai nhà sử học LVS là chuyện bình thường của cá nhân nhưng khi viết cần phải nghiêm túc với tinh thần khoa học chứ không thể chỉ với một lời nói suông nhằm hạ thấp uy tín của người khác. Khi tôi trích dẫn LVS trong bài viết của mình, không phải là vì học vị, số lượng tác phẩm, nhưng chính là vì trong sách của LVS đã đưa ra được một tục truyền về cách hiểu liên quan đến chữ Cù (Cồ) của nhà Nho Việt xưa mà các sách khác không thấy đề cập, nhưng trước đó tôi đã phê bình về cách giảng nghĩa chữ Hán không phù hợp của LVS: “...ông đã giải thích sai về chữ cù, Khang Hy Tự Điển không có chú âm nào là CỒ hay CỘ mà chỉ có CÙ, CỤ, CÂU, về nghĩa thì "Trừng thị" là trợn mắt trông thẳng chứ không phải là một chỗ trông thẳng như Lê Văn Siêu hiểu…ông đã hiểu chữ cù với nghĩa “một chỗ trông thẳng” để gượng ép giải thích cách hiểu của cổ nhân: “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang)” nhưng thật ra cần phải hiểu =cù và 3 chữ大瞿越sẽ là大衢越, như vậy quốc hiệu Đại Cù việt của nhà Đinh mới đúng là có nghĩa như trên” rồi sau tôi mới nhận xét khách quan: “Dù sao, thông tin của sử gia Lê Văn Siêu về “lối hiểu của người xưa” đã trở thành một chứng cứ cần thiết cho lập luận thiên về ý nghĩa chính trị xã hội.” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Ngoài chứng cứ về tục truyền, tôi còn dẫn ra những chứng cứ quan trọng khác như từ Khang Hy tự điểnTôn Tử binh pháp…cùng sự phê bình luận điểm Quốc hiệu nhà Đinh theo khuynh hướng Phật giáo để chứng minh cho cách hiểu  là một chữ Hán theo tinh thần xã hội, chính trị.
3. “Dẫn Trương Vĩnh Ký (1875) ghi lối chữ la tinh là Đại – Cù -Việt thì biện minh được cho lập luận chính Huỳnh Tịnh Của là nguyên cớ phát sinh chữ Cù đọc thành Cồ (1895) nhưng lại cho biết G. Dumoutier đọc Đại Cồ Việt năm 1894 thì làm sao đổ tội cho HTC được” [TC Xưa & Nay số 386 trang 32 , cột 2, 3]
Tôi thực ngạc nhiên vì TCĐT đã không hiểu rõ luận cứ của tôi về sự ngộ nhận từ Cù thành Cồ, nên phải trích dẫn lại từ bài viết của tôi: “Nguyên nhân sâu xa dẫn đến luận thuyết về chữ trong quốc hiệu nhà Đinh là chữ Nôm có thể là do sự ngộ nhận về chữgắn liền với âm Hán Việt là “cồ” khởi đầu từ học giả như Gustave Dumoutier, viết theo âm Hán Việt là “Đại CỒ Việt” trong Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam indépendante 1894 và các học giả tiếp theo viết chữ quốc ngữ thời kỳ đầu như Phan Kế Bính với Nam Hải dị nhân liệt truyện [1912],Trần Trọng Kim trong Việt Nam sử lược [1919], Đào Duy Anh với Giản Yếu Hán Việt từ điển [1932] khiến cho các học giả, nhà nghiên cứu Hán Nôm sau này đã dựa vào để gán nghĩa cồ là to, lớn theo cách hiểu hiện đại” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Trong giới hạn tài liệu đến nay, người đầu tiên đã viết ký âm La tinh 3 chữ 大瞿越 là “Đại CỒ Việt” đó là Dumoutier (1894) chứ không phải  Huỳnh Tịnh Của như TCĐT hiểu lệch đi. Thời của Dumoutier đã đọc chữ Hánlà “cồ”, là một cách đọc khác thay cho âm “cù” trước đó như Trương Vĩnh Ký đã ghi nhận (1875) nhưng chưa đặt thành vấn đề về chữ Nôm. Từ đây, âm Hán Việt “cồ” của chữ 瞿 (trong tên nước Đại Cồ Việt大瞿越,tên Phật Cồ Đàm) bắt đầu lẫn lộn với tiếng “cồ” được viết chữ Nôm là 瞿 (như tự vị Béhaine 1772-1773) nhưng chỉ đến khi HTC bắt đầu chú nghĩa Cồ là to. lớn (ĐNQÂTV 1895) thì theo quan điểm của tôi: “cách hiểu cồ có nghĩa là to, lớn là một ngộ nhận khởi đi từ Huỳnh Tịnh Paulus Của và chỉ bắt đầu xuất hiện sau khi học giả Sở Cuồng Lê Dư từ năm 1932 đã xác nhận  là chữ Nôm có trong quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cồ Việt 大瞿越, từ đó trở về sau đã trở thành một định kiến, ngộ nhận về chữ Nôm đã có từ thời Đinh với chứng tích là chữ cồ. [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Như thế TCĐT sao lại cho tôi đã “đổ tội cho HTC” là nguyên cớ phát sinh chữ Cù đọc thành Cồ? HTC cùng với cách giải nghĩa chữ Cồ là to, lớn chính là một chỉ dẫn, một chứng cứ quan trọng khiến cho các nhà nghiên cứu sử và Hán Nôm từ Lê Dư trở đi ngộ nhận về chữ 瞿trong quốc hiệu 大瞿越nhà Đinh là là một chữ Nôm. Đây là một sự thật khách quan.
4. “ Khi lấn vào địa hạt ngữ học của NTC, tác giả lộ sơ hở về kiến thức khi cho rằng “từ xưa đến nay trong thư tịch Hoa ,Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm chưa bao giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ (tuất+tẩu, thay chữ Hán trong trích văn) Việt cả”. Không phải đâu, còn một chữ Hán khác để chỉ vùng quảng Châu mà ông Bình Nguyên Lộc nhìn ra cái hình lưỡi cày dó!” [TC Xưa & Nay số 386 trang 32 , cột 3]
Trước hết xin phép được trích lại nguyên ý của tôi: “Dù cổ nhân đọc theo giọng Trường An hay giọng bản địa (HuWET hay KuWET) theo một âm tiết hay hai âm tiết đi nữa thì từ xưa đến nay trong thư tịch Hoa, Việt viết bằng chữ Hán hay Nôm chưa bao giờ, viết chữ nào khác ngoài chữ cả. Chính vào thời Đinh, trên gạch Hoa Lư đã đóng dấu dòng chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên và trên cột kinh Phật đỉnh Tôn Thắng ở Hoa Lư có khắc những chữ Hán “Nam Việt Vương Đinh …Liễn” chỉ được viết bằng một chữ mà thôi! [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Ông TCĐT hiểu sai lập luận của tôi rồi, ai không biết chữ 越còn viết là 粤hay có nhiều dị thể khác nhưng không liên quan đến mục đich của tôi là từ chữ  đang bàn hiện hữu trong thư tịch Trung Hoa thời Tống và di vật khảo cổ thời Đinh – Tiền Lê như đã chứng minh,không hề có kiểu viết hai chữ theo luận chứng ngữ âm của NTC: (song tiết) cùviệt = việt (đơn tiết) 瞿越 = 越.Chữ “Việt” đời Thương theo Bình Nguyên Lộc “suy đoán” là chữ chỉ dân Cổ Việt vì giống hình lưỡi rìu Quốc Oai chỉ là một “ức thuyết” như chính BNL đã tự nhìn nhận trong sách của mình, làm sao TCĐT lại có thể dùng làm chứng cớ khoa học để phản biện? Mong sử gia lục tìm trong thư tịch Hoa – Việt xem có kiểu viết 2 chữ thay cho chữ越? Xin chân thành cảm ơn.
5. “Ông nhắc dòng chữ: “…quốc quân thành chuyên”, sao không nhắc một dòng chữ khác trên gạch: “Lý gia Đệ tam đế Long Thụy Thái Bình niên tạo…nhưng vì định kiến muốn vứt chữ Cù, nên chỉ nói đến “những viên gạch Hoa Lư” rồi quên dòng chữ khác kia mà cho rằng “những viên gạch này đã có sức mạnh làm thay đổi các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 1]
Khi nghiên cứu tôi đã biết gạch “Lý gia Đệ tam đế Long Thụy Thái Bình niên tạo” (Đúng ra là “Lý gia đệ tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo”) đã được phát hiện từ lâu nhưng vì thông tin này chỉ có niên hiệu đời Lý chứ không liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh nên tôi không dùng làm chứng cứ cần thiết. Cho nên gạch thời Đinh là “Đại Việt quốc quân thành chuyên大越軍城塼” đương nhiên là một bằng chứng rất quan trọng vì tính xác thực, khách quan “có sức mạnh làm thay đổi các định kiến từ bấy lâu về quốc hiệu nhà Đinh
6. “Tại sao bản TT hiện thấy, hẳn có qua tay Vũ Quỳnh, lại không ghi chữ cù này?” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 1]
Đã nói là “cổ quái” thì dĩ nhiên chữ  cũng phải ở dạng “cổ quái” cho hợp với thời Đinh cách xa Vũ Quỳnh hàng 6 thế kỷ, do đó chữ瞿 cần phải được nhận dạng là một chữ Hán cổ như trong Tôn Tử binh pháp thiên Cửu địa ghi: “có thế đất Cù Địa 瞿地” và Cù Địa地theo Hán ngữ đại từ điển vẫn thông hành viết là “地”, theo Khang Hy “瞿:[唐韻] 其俱切, [集韻][韻會] 權俱切,音衢.義同”(:Đường vận, Tập vận, Vận hội; âm cù(). Nghĩa đồng). Trong thư tịch Việt, khi viết chữ Lạc trong Lạc Long quân, Lạc hầu, Âu Lạc…hầu hết các sách còn lại từ đời Trần đến Nguyễn đều chỉ ghi cùng một tự dạng là Lạc bộ trãimà thực ra thư tịch Trung Hoa lại ghi là lạc bộ mã  hay Lạc bộ chuy nên cũng dễ hiểu tại sao ĐVSKTT hiện còn kể cả các sách khác lại không viết chữ nào khác nào ngoài chữ瞿 - nếu thực sự do Vũ Quỳnh tạo ra - . Đây là một tập tục hiếu cổ, kính trọng tiền nhân của nhà Nho Việt xưa.
7..“… về tên Đại Cồ/Cù Việt, từ lâu nay người ta vẫn lấy ở TT, nhưng trong tình thế chật hẹp của mình, tôi thấy ông Y. Tsuboi nhắc rằng tên đó đã có ở Tống sử (bản dịch Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885), Hội sử học Việt Nam xuất bản, 1992/1993, trang 132, chú 1)…Dù thế nào đi nữa thì tên Đại Cồ Việt…đã được người Tống ở xa ghi vào sử triều của họ hẳn là tên nước đó có vào thời Đinh thật.” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 2,3]
Sách Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885) tôi đã từng đọc rồi, kể cả dòng chú thích 1, trang 132 nhưng theo tôi chẳng có gì để tham khảo, dẫn chứng cả vì Y. Tsuboi không xác minh gì cả, ông chỉ cho biết thông tin về “niên đại giành được độc lập còn tranh luận” liên quan đến Đinh Bộ Lĩnh qua công trình nghiên cứu của Học giả Lê Thành Khôi, Masahiro Kawahara. Tsuboi viết: “…đặt tên nước là Đại Cồ Việt (Tống sử). Xem Lê Thành Khôi, sđd, tr 138-139” có lẽ đây là một chỉ dẫn “quan trọng” đối với nhà sử học TCĐT nên ông mới mừng rỡ khẳng định “Dù thế nào đi nữa thì tên Đại Cồ Việt…đã được người Tống ở xa ghi vào sử triều của họ hẳn là tên nước đó có vào thời Đinh thật.” Không hiểu ông đã tìm sách Le Viet Nam -Histoire et Civilisation, Paris, Les Editions de Minuit 1955 của Lê Thành Khôi để xem ở trang 138-139, tác giả có trích dẫn Tống sử liên quan đến quốc hiệu nhà Đinh hay không rồi mới quả quyết? Thật không may cho nhà sử học đáng kính, Lê Thành Khôi trong sách trên không hề trích dẫn đoạn văn nào của Tống sử viết về Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt. Tôi lại phải mất công tốn thời gian thẩm định lại (dù trước đó đã đọc rồi nhưng không thấy thông tin liên quan) nguyên văn chữ Hán (đầy rẫy trên internet) của Tống sử 宋史 để xem thử có đoạn nào nhắc nhở đến quốc hiệu nhà Đinh? Hoàn toàn thất vọng, không hề có 3 chữ 大瞿越 trong Tống sử! Vậy thì niềm tin thật thà (nếu không muốn nói là cả tin) của ông TCĐT dùng làm luận chứng để bài bác, khuyên bảo tôi “Ông ĐVT nên đọc lời chú đó để biết thêm các tác giả Việt, Nhật khác”, nay xin kính cẩn trả lại cho nhà sử học.
8. “Bảo rằng Đinh chỉ có tên nước là Đại Việt vậy mà, khi tìm ra ý nghĩa hay ho của chữ cù này, ông lại cho là “hợp lý vì Đinh…mở ra một triều đại chính thống đầu tiên trong nước Việt…nước Việt thống nhất hòa bình giờ đây đã hanh thông, là nơi (đường lớn) thông tứ phương, thể hiện khát vọng sâu xa của một bậc đế vương sau khi thống nhất sơn hà từ đó làm cho nưóc Việt ngẩng cao đầu, nhìn ra thế giới rộng mở hơn”. Viết như thế này thì thật đáng khen nhưng một mặt khó tranh biện vì không phải là sử học, mặt khác, có thể làm người ta không dám bàn tới vì sợ bị buộc tội không yêu nước Việt” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 1]
Nói cho đúng thì lời khen và quan ngại này của nhà sử học TCĐT nên dành cho sử gia Vũ quỳnh ở thế kỷ XVI chứ không phải là tôi vì như tôi đã lập luận: “sau khi khảo sát các văn bản chữ Hán và các văn khắc (bia đá, chuông đồng) đời Lý- Trần, đặc biệt là những di vật khảo cổ thế kỷ thứ X chúng tôi đã phát hiện ra được một thực trạng về quốc hiệu nhà Đinh là Đại Cù Việt大瞿越chưa từng hiện hữu trong lịch sử nhà Đinh vào năm 968 nhưng chỉ xuất hiện trên văn bản khắc in chữ Hán của ĐVSKTT, theo quan điểm của chúng tôi, những soạn giả bộ sử này đã cố ý tạo ra một quốc hiệu mới cho nhà Đinh trước tình hình nhà Đinh theo các tài liệu còn lại không thấy nói gì đến quốc hiệu mà một triều đại chính thống mở đầu Bản Kỷ là nhà Đinh tất nhiên phải có, với phát hiện của chúng tôi thì chính xác vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) danh xưng nước Đại Cù Việt do chính sử gia Vũ Quỳnh sáng tạo ra khi biên soạn bộ Việt Giám Thông Khảo sau đó đã chính thức du nhập vào ĐVSKTT . [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Còn về phần tôi, chỉ là người đã “vén màn” đưa ra ánh sáng ý nghĩa, vị trí , thời điểm ra đời của 3 chữ Đại Cù Việt大瞿越, thế thôi.
9. “Nhưng tên Đại Việt thì không phải riêng của Đinh (ĐVT), không phải chỉ của Lý (1054) như ở TT và mấy viến gạch kia chỉ dẫn. Nó đã có trước của chúa Lưu Cung/Nghiễm lấy tên vào các năm 915-918, trước khi chuyển qua quốc hiệu Nam Hán” [TC Xưa & Nay số 386 trang 33 , cột 3]
Vấn đề này tôi sẽ trả lời nhanh gọn; cần phải xác định giới hạn ở lịch sử Việt Nam thuộc thời kỳ Ngô – Đinh - Tiền Lê đến Lý để khảo sát, tìm chứng cứ, lập luận và ưu tiên cho những thông tin đắt giá từ thư tịch Hán –Việt liên quan đến quốc hiệu Đại Cù/Cồ Việt hay Đại Việt ở đất Cổ Việt (Giao Chỉ, Giao Châu) cho nên về quốc hiệu Đại Việt (917) ngắn ngủi trước khi cải là Đại Hán hay Nam Hán (918) dù tôi đã biết (xin xem Đại Cồ Việt /http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,39577/,Khảo về “Đại Cồ Việt” - Nước Phật giáo lớn /http://www.viethoc.org/phorum/read.php?11,40618/) nhưng thấy không cần thiết nêu ra vì không liên quan đến Cổ Việt.
10. “Rồi vì vướng víu cái thế mới thoát vòng ngoại thuộc…cũng có thể là do sự co rút bản xứ hóa, “trở về với dân tộc” nên tên không phải là Đại Việt mà là Đại Cồ Việt. Đến đây thì có thể dùng chữ “cồ” được rồi đấy” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Tưởng nhà sử học đưa ra một kiến giải mới với luận chứng vững chắc, rất “sử học” nhưng hóa ra, ông cũng chỉ bay bổng theo cơn cảm hứng tưởng tượng với hết suy đoán này đến ước đoán khác. Nào là mượn quốc danh Đại Việt, nước Đô Hộ rồi sau “co rút” bài ngoại “trở về dân tộc” với tên nước là Đại Cồ Việt! Trong khi đó lại phớt lờ đi mấy chữ rõ mồn một trên viên gạch Hoa Lư “Đại Việt quốc…” ở thời Đinh – Tiền Lê hay sự thật là Tống sử chẳng hề nhắc đến Đại Cồ Việt.
11. “Đã có chứng cớ về tiếng Việt, tiếng bản xứ, “Man ngữ” ở cuối thế kỷ VIII khi Trương Tịch gặp Nhật Nam tăng, ở thế kỷ X khi Tống Cảo nghe Lê Hoàn hát. Vậy thì chữ “cù” ở quốc hiệu không thể chối cãi kia, mang tính lạc lõng, tất không thể là chữ Hán mà là chữ Nôm, của một âm tiếng Việt viết ra Quốc ngữ ngày nay, là “cồ”. ” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Đúng là thi sĩ đời Đường là Trương Tịch đã từng gặp một nhà sư ở Nhật Nam và đã làm bài thơ Sơn trung tặng Nhật Nam tăng,trong đó có câu “Man ngữ vấn thùy gia?”: Tiếng người phương Nam hỏi nhà ai? Và trongTống sử (Giao Chỉ truyện) đã từng ghi chép việc sứ thần nhà Tống là Tống Cảo đi sứ Giao Châu và thuật lại sự kiện vua Lê Hoàn tự mình hát bài “khuyến tửu ca” (khúc ca mời rượu). Dĩ nhiên Lê Hoàn đã hát bằng tiếng bản xứ nhưng đó là tiếng Việt chứ không phải là chữ quốc âm (Nôm), không thể đánh đồng. Người Việt thời Đinh – Tiền Lê dùng chữ Hán để ghi chép, truyền đạt ở trong nước hay đối ngoại nhưng vẫn nói năng, hát hò bằng tiếng mẹ đẻ là sự thật của lịch sử. Cho đến nay, đa số các nhà nghiên cứu chữ Nôm vẫn thận trọng cho thời điểm ra đời của chữ Nôm chỉ khoảng thời Lý – Trần, còn vào thế kỷ X đáng tiếc là chưa có bằng chứng xác thực. Về chữ Nôm CỒ瞿 trong quốc hiệu nhà Đinh, hiện vẫn là một vấn đề còn đang tranh luận, chưa có một kết luận khoa học nên không thể võ đoán như TCĐT là “tất không thể là chữ Hán mà là chữ Nôm, của một âm tiếng Việt viết ra Quốc ngữ ngày nay, là “cồ”
12. “Không phải của ông Huỳnh Tịnh Của bịa đặt sai lầm, đó là chữ “cồ” với nghĩa to, lớn thường được dẫn giải chứ không phải là nói hùa theo HTC. Đó là dấu vết của việc ghi nhớ khi học một thứ chữ ngoại quốc (Hán), từng hiện diện trong sách giáo khoa xưa. Thiên /trời, địa/đất…Lối ghép chữ Hán+Nôm sẽ chuyển qua Nôm+Hán trong các từ sông Hồng Hà, núi Hồng Lĩnh còn tồn tại.” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột 2]
Ông TCĐT chỉ loanh quanh, không vượt khỏi luận giải của nhà Khảo cổ học Nguyễn Thị Hậu, nói cách khác lập luận của ông không khác gì NTH: “Cồ” là một từ tiếng Nôm cũng chỉ sự to lớn... Căn cứ vào chữ in trên những viên gạch xây thành Hoa Lư thì phải chăng, quốc hiệu thời Đinh – Tiền Lê … là Đại Việt (cả hai từ đều là chữ Hán) nhưng trong dân gian thì vẫn phổ biến thói quen nói ghép hai từ Hán – Nôm đồng nghĩa nên gọi là Đại Cồ Việt (tương tự như từ: bông hoa)” thì có gì là mới và có giá trị thuyết phục hơn? Sau đây là phê bình của tôi: “theo ý chúng tôi TS Nguyễn Thị Hậu đã không thoát khỏi quỹ đạo “chữ Nôm cồ (lớn) có từ thời Đinh” như chúng tôi đã phê bình ở phần trên, do đó cách lý giải: vì Cồ = Lớn = Đại nên Đại Cồ là một kiểu nói bình dân do đó Đại Cồ Việt = Đại Việt cũng không có hy vọng tiến gần sự thật.” [TC Xưa & Nay số 368 – 369] Vấn đề quan trọng nhất chính là làm sao chứng minh khoa học tiếng “cồ” có nghĩa là to, lớn có từ thời Đinh cũng như chữ Nôm CỒ瞿 có khả năng ghép vào quốc hiệu nhà Đinh? Thật tiếc là đến nay, kể cả TCĐT, chưa một ai thành công.
Lời kết:
Sau khi đọc bài viết của nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, tôi có cảm tưởng tác giả nhân cơ hội phê bình, phản bác bài viết của tôi là nhằm đưa ra kiến giải riêng theo khuynh hướng bảo vệ chữ Nôm CỒ瞿trong quốc hiệu nhà Đinh với niềm tự hào “khác thường” của một nhà sử học: “Vậy coi như tôi đã giải quyết xong chuyện Đại Cồ Việt. Còn bằng lòng hay không là chuyện của người khác.” [TC Xưa & Nay số 386 trang 34 , cột 2, dòng cuối], thú thật cá nhân tôi chẳng thấy tác giả đã thật sự “giải quyết xong” một cách khoa học, thành công với sức thuyết phục cao về vấn đề quốc hiệu Đại Cù (Cồ) Việt.
Vấn đề vẫn còn đó, đang mời gọi mọi người quan tâm, yêu thích sử học, Hán Nôm tim hiểu, khám phá, góp phần giải mã bí ẩn của lịch sử.
Biên Hòa, ngày 09 tháng 9 năm 2011