Friday 27 September 2013

Nữ anh hùng của tổ điệp báo A13 trong truyện của nhà văn Văn Phan (Nguyễn Thị Việt Hà - Văn Nghệ Công An)

Trang nhất > Văn Nghệ Công An > Tư liệu văn hóa
Nữ anh hùng của tổ điệp báo A13 trong truyện của nhà văn Văn Phan
8:09, 10/04/2005


Bìa cuốn sách của nhà văn Văn Phan.

Chị tình nguyện trở thành một cảm tử quân hóa thân cùng tiếng nổ trên Thông báo hạm Amyot D’inville nổi tiếng một thời. Đó là nữ anh hùng Nguyễn Thị Lợi - nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết tư liệu “người thật việc thật” của nhà văn Văn Phan.
Nhà văn Văn Phan là thế hệ những nhà văn có những đóng góp và tâm huyết với văn học đề tài an ninh quốc phòng - đề tài vốn vẫn được xem là một lãnh địa khó với nhiều người cầm bút. Ông đã đạt được thành công với mảng tiểu thuyết tư liệu, trong đó có những cuốn sách có giá trị được nhiều người nhắc đến như “Đội Công an số 6”, “Lớn lên với Điện Biên”, “Đoàn mật vụ của Ngô Đình Cẩn”…
Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville” được nhà văn suy  nghĩ, nung nấu trong nhiều năm. Ông đã dành thời gian chăm chút tư liệu, cố gắng tái hiện những biến cố, diễn biến các sự kiện và tính cách các nhân vật có liên quan đến tổ điệp báo A13 huyền thoại.
Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot Dinvill” ra đời đã nhận được sự đón nhận tích cực của độc giả vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày thành lập lực lượng Công an nhân dân. Tác phẩm cũng được tặng thưởng của Ban Văn học An ninh Quốc phòng của Hội Nhà văn năm 1995.
Nhà văn Văn Phan không phải là người đầu tiên tiếp cận, khai thác, tái hiện chiến công của tổ điệp báo A13. Trước đó, nhà văn Lê Tri Kỷ đã có cuốn Câu lạc bộ chính khách và nhà văn Nguyễn Đình Lạp với tập Chiếc valy và nhiều bài báo đã được in rải rác trên các báo, tạp chí. Tuy nhiên những tác phẩm này vẫn chưa tái hiện được tầm vóc, những chiến công, sách lược cũng như những mối nguy hiểm mà tổ điệp báo A13 đã vượt qua.
Nhà văn Văn Phan cho biết, các nhân vật trong tiểu thuyết này hầu hết là có thật, trong đó có nhân vật nữ là bà Nguyễn Thị Lợi. Bà Lợi nguyên là một phụ nữ Nam Bộ, lấy chồng người Hưng Yên và theo chồng ra Bắc, nhưng lại chịu phận làm lẽ. Cảnh “chồng chị chồng em” không đem lại cho bà một cuộc sống êm đềm, hạnh phúc, vậy là bà lại phải tìm đường vào Nam.
Trên đường về lại quê nhà, đến Thanh Hóa bà gặp được đồng chí Hoàng Đạo là Trưởng ty Công an Thanh Hóa, là người đồng hương Nam Bộ đã giúp đỡ để về quê. Nhưng vào đến Hoàng Mai thì bà gặp phải một ổ tập kích, nên phải quay trở lại. Một đứa con của bà Lợi đã bị chết.
Tại Thanh Hóa, người vợ của đồng chí Hoàng Đạo đã giúp đỡ bà Nguyễn Thị Lợi vào làm phụ cấp dưỡng ở Ty Công an Thanh Hóa. Về sau bà được cảm hóa và vào tổ điệp báo A13, cùng với các đồng chí tình báo cốt cán như Kim Sơn, Hoàng Đạo và Hải (tức Chu Duy Kính). Khi tổ chức quyết định đánh phá một thông báo hạm, chị Nguyễn Thị Lợi trong vai là phu nhân của đồng chí Hoàng Đạo - lúc ấy là Quốc vụ khanh - đã nhận nhiệm vụ là một người cảm tử, được tổ chức gửi vào thông báo hạm cùng với một khối thuốc nổ lớn.
Nữ học viên Học viện ANND bên tượng Anh hùng Nguyễn Thị Lợi.

Thông báo hạm Amyot D’inville nổ tung, tan xác hơn 200 sĩ quan và binh lính Pháp cùng hàng trăm tấn vũ khí, khí tài hiện đại của địch. Người phụ nữ can trường ấy thanh thản nằm lại trong lòng biển Đông nhưng chiến công của bà và của tổ điệp báo A13 huyền thoại còn mãi trong lịch sử ngành Công an Việt Nam.
Trong quá trình đi sưu tầm tài liệu để tái hiện Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville, nhà văn Văn Phan đã may mắn được chính những thành viên lão thành trong tổ điệp báo A13 kể cho nghe những câu chuyện có thật trong quá trình hoạt động. Đó là các ông Kim Sơn, Hoàng Đạo, Chu Duy Kính…
Tác giả đã bỏ khá nhiều thời gian, công sức đi tìm hiểu, tiếp xúc với những người trong cuộc, tra cứu hồ sơ, tài liệu lưu trữ, cùng các nhân vật về lại những vùng đất căn cứ cách mạng xưa để khảo sát, kiểm chứng, chắp nối các thông tin. Ông so sánh, lựa chọn, cân nhắc các chi tiết và huy động trí tưởng tượng để chọn bối cảnh sao cho thật hợp lý.
Nhà văn đặc biệt chú ý tới nhân vật bà Ba Lợi trong quá trình nhận một nhiệm vụ quan trọng như vậy. Ông cho biết: “Tôi rất xúc động khy nghĩ đến tâm lý của nhân vật nữ là bà Nguyễn Thị Lợi khi đối diện với cái chết đang đến gần với mình từng giây từng phút”.
Trong dòng tâm sự với độc giả cuốn “Tiếng nổ trên chiến hạm Amyot D’inville”, với tư cách là nhân vật còn sống, ông Hoàng Đạo xúc động viết: “…Càng thương tiếc người điệp viên Nguyễn Thị Lợi, trước lúc vĩnh biệt, lời trối trăng của chị như còn văng vẳng bên tai. Giờ đây, tôi phải sống trọn lời thề của mình trước người đã khuất…”.
Ngày 3/8/1995, bà Nguyễn Thị Lợi đã được Nhà nước ta truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND
  Nguyễn Thị Việt Hà

Chuyện của những người làm nổ tung chiến hạm Amyot D, Inville (Tô Lan Hương - An Ninh Thế Giới)

Trang nhất > An Ninh Thế Giới Cuối Tháng > Cảnh sát toàn cầu tháng
Chuyện của những người làm nổ tung chiến hạm Amyot D, Inville
10:15, 01/09/2010


Đai tá Kim Sơn - thành viên tổ điệp báo A13 trong trận đánh chiến hạm Amyot D'Inville.

50 năm đã trôi qua kể từ ngày tổ điệp báo A13 làm nổ tung chiến hạm Amyot D'Inville của thực dân Pháp, làm nên một trong những chiến công vang dội nhất của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam. Trong suốt thời gian đó, nhiều bài báo, nhiều tác phẩm văn học đã ra đời để tái hiện bản anh hùng ca về những người chiến sĩ CAND đã tham gia đánh chiến hạm Amyot D'Inville ngày ấy.
Nhưng việc xây dựng lại toàn bộ câu chuyện lịch sử đó một cách đầy đủ vẫn mãi là niềm trăn trở của các nhà văn, nhà báo, nhà làm phim thực sự có tâm huyết. Nên cuối cùng, vào đúng dịp 50 năm Amyot D'Inville nổ tung, Trung tướng Nguyễn Hữu Ước, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục XDLL-CAND đồng thời là Tổng Biên tập Báo CAND, cùng với đạo diễn Long Vân, đạo diễn của bộ phim nổi tiếng "Biệt động Sài Gòn" đã cùng xây dựng ý tưởng về việc đưa câu chuyện về chiến hạm Amyot D' Inville lên màn ảnh, như một lời tri ân với những người anh hùng của tổ điệp báo A13 năm đó.
Và trên đường theo đạo diễn Long Vân đi tìm lại những nhân chứng lịch sử của cuộc tấn công vào chiến hạm Amyot D'Inville, người viết bài này đã có cơ hội được gặp những con người có mối quan hệ mật thiết với câu chuyện về Amyot D'Inville. Họ có thể là người đã trực tiếp tham gia vào câu chuyện lịch sử đó, cũng có thể là người chỉ được nghe câu chuyện đó qua những lời kể, nhưng tất cả họ đều có quyền tự hào về chiến công đó. Và những người anh hùng của tổ điệp báo A13, dù còn sống hay đã chết, sẽ mãi được ghi danh trong những trang sử vàng của dân tộc.
Con gái người nữ anh hùng và những kí ức về mẹ
Có một câu chuyện đầy cảm động ở Công an tỉnh Thanh Hóa khiến bất cứ ai chứng kiến cũng cảm thấy nao lòng. Chuyện rằng tất cả những người chiến sĩ Công an Thanh Hóa đều có một niềm tin linh thiêng. Trước mỗi lần lên đường làm nhiệm vụ, mỗi lần đi đánh án, không ai bảo ai, nhưng tất cả họ đều có chung một thói quen, đó là đến trước tượng đài của người nữ Anh hùng LLVTND - liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi để thắp một nén hương và nghiêng mình kính cẩn. Tất cả cán bộ của Công an Thanh Hóa đều tin rằng, linh hồn người nữ Anh hùng ấy sẽ theo họ trong mỗi chuyên án, bảo vệ họ và giúp họ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Niềm tin đó, từ nhiều năm qua, chưa bao giờ suy chuyển.
Nhắc đến chiến hạm Amyot D'Inville, người ta không thể không nhắc đến nữ Anh hùng LLVTND Nguyễn Thị Lợi, người chiến sĩ Công an đã ôm bom cảm tử, làm nổ tung chiến hạm Amyot D'Inville, khiến cả nước Pháp và dư luận thế giới khi ấy bàng hoàng. Khi chiến hạm Amyot D'Inville nổ tung, bà mới 39 tuổi, nhưng đã hoàn toàn thanh thản và mãn nguyện khi được hi sinh xương máu của mình cho Tổ quốc. Và cuộc đời bà, cuộc đời của một người nữ chiến sĩ Công an nhân dân anh hùng đã trở thành huyền thoại trong câu chuyện của những người còn sống.
Chiến hạm Amyot D'Inville.
Amyot D'Inville là chiến hạm Pháp đã từng tham gia cuộc Chiến tranh thế giới II, cũng là một trong những Thông báo hạm lớn nhất của Pháp hoạt động ở khu vực biển Thái Bình Dương thời kỳ đó. Đầu những năm 1950, chiến hạm Amyot D'Inville hoạt động ở vùng biển xứ Thanh Nghệ, phục vụ cho âm mưu đánh chiếm vùng đất này của thực dân Pháp. Nhưng thực dân Pháp đã không thể ngờ rằng, đây cũng chính là mồ chôn của Amyot D' Inville kiêu hãnh, một nỗi đau mà giới chính trị Pháp lúc đó thực sự muốn đào sâu chôn chặt.
Ngày đó, đồng chí Hoàng Đạo, tổ trưởng tổ điệp báo A13, với sự hỗ trợ của đồng chí Kim Sơn đã xâm nhập được vào bộ máy chính quyền địch và giữ tới chức vụ Quốc vụ khanh của Bảo Đại, được thực dân Pháp cũng như ông vua bù nhìn Bảo Đại đặc biệt tín nhiệm. Nhưng để chắc chắn "nắm thóp" được "Quốc vụ khanh" Hoàng Đạo, thực dân Pháp đã đề nghị  ngài "Quốc vụ khanh" đưa phu nhân của mình ra Hà Nội sống "dưới sự bảo vệ" của chúng. Đó cũng là thời điểm mà đồng chí Hoàng Đạo và Kim Sơn được lệnh chấm dứt nhiệm vụ trong hàng ngũ địch, để trở về nhận nhiệm vụ mới.
Tương kế tựu kế, nên khi thực dân Pháp đưa chiến hạm Amyot D'Inville đến đón "phu nhân của Quốc vụ khanh" Hoàng Đạo ra Hà Nội, một kế hoạch táo bạo đánh bom Amyot D'Inville đã được vạch ra, với mục đích làm thiệt hại nặng nề lực lượng và uy tín của địch, phá sản âm mưu thôn tính của thực dân Pháp.
Đêm 26/9/1950, một đêm mưa gió bão bùng, đồng chí Nguyễn Thị Lợi (bí số A16), trong vai phu nhân của "Quốc vụ khanh" Hoàng Đạo đã lên tàu Amyot D'Inville với 30kg thuốc nổ được đựng trong một chiếc valy mà thực dân Pháp cứ ngỡ là thuốc phiện. 30 phút sau, chiến hạm Amyot D'Inville nổ tung, đem theo mạng sống của hơn 200 sĩ quan địch, cùng với hàng trăm tấn thuốc nổ mà thực dân Pháp dự định để chi viện cho quân đội Pháp ở Việt Nam, làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp, khiến uy tín của quân đội Pháp ở Việt Nam cũng như uy tín của giới cầm quyền ở Pháp bị sụt giảm nghiêm trọng.
Đó cũng là một trong những chiến công vang dội của lực lượng tình báo Công an nhân dân trong thời kì đầu non trẻ mới thành lập. Nhưng để làm nên chiến công đó, bà Nguyễn Thị Lợi, người chiến sĩ Công an Thanh Hóa đã hi sinh cảm tử, để lại một câu chuyện dài về cuộc đời đau khổ nhưng đầy tự hào của người nữ anh hùng này.
Tôi đã có may mắn gặp được bà Nguyễn Tường Vân, con gái nữ Anh hùng Nguyễn Thị Lợi trong một ngôi nhà nhỏ và giản dị giữa lòng Sài Gòn sôi động và ồn ào. Bà chẳng kể được gì nhiều, bởi cứ mỗi lần nhắc đến người mẹ đã khuất, bà đều không kìm nén được nỗi xúc động trong lòng.
Khi Anh hùng Nguyễn Thị Lợi hi sinh, bà Tường Vân mới tròn 6 tuổi và không hề được gặp mặt mẹ trong nhiều năm liền. Mãi đến khi 15 tuổi, bà mới biết mình có một người mẹ anh hùng: "Lúc nhỏ tôi sống với ông bà nội ở Hưng Yên. Mẹ tôi là người gốc Nam Bộ, quê ở Châu Đốc, An Giang, nhưng lại lấy bố tôi người Bắc và theo bố tôi ra miền Bắc sinh sống. Ngày đó, vì cuộc sống có nhiều khó khăn, nên bố mẹ tôi đôi khi có những va chạm trong cuộc sống. Điều đó khiến mẹ tôi buồn bã và bà đã quyết định gửi tôi về cho ông bà nội rồi một mình đưa đứa em mới đẻ của tôi tìm về miền Nam. Nhưng trên đường đi thì em tôi chết, mẹ tôi ở lại Thanh Hóa và hoạt động cách mạng cho đến ngày hi sinh" - bà Tường Vân kể.
Ngày ấy bà lớn lên mà không hề biết mình có một người mẹ anh hùng. Mãi đến năm 10 tuổi, trong một lần nghe người chú nói chuyện về tấm gương hi sinh của mẹ, bà mới biết những câu chuyện thật về mẹ mình. Suốt mấy năm sau đó, bà luôn canh cánh trong lòng cái khao khát tìm lại được mẹ. 17 tuổi, bà từ Hưng Yên lên thành phố, làm công nhân cho một xí nghiệp ở Hà Nội. Số phận dường như đã có sự sắp đặt kì lạ khi cho bà cơ hội được làm nhân viên của một ông giám đốc cũng là người Nam Bộ, người mà khi nghe bà kể chuyện muốn tìm người mẹ của mình đã ngay lập tức đến tìm đồng chí Hoàng Đạo, tìm được người đã chứng kiến toàn bộ quãng đời của mẹ bà trong những năm tháng sau này. Cuộc gặp gỡ đó là một sự xếp đặt kì diệu của số phận.
Bà Tường Vân bồi hồi nhớ lại: "Tôi nhớ khi bác Hoàng Đạo đến gặp tôi, vừa nhìn thấy tôi, bác đã sững người lại và nói: Đôi mắt này. Cặp lông mày cong cong này. Đúng là con rồi. Bao nhiêu năm ta đi tìm con theo di nguyện của mẹ con mà không thấy. Còn bây giờ, tìm được con rồi, thì con sẽ là con gái ta. Ta sẽ thay mẹ con chăm sóc cho con được hạnh phúc. Kể từ đó, tôi có một người cha nuôi hết mực yêu thương mình, người đã chăm sóc tôi đúng như một người cha thực thụ".
Ngay sau khi gặp được Tường Vân, đồng chí Hoàng Đạo đã dẫn cô bé 17 tuổi lên gặp đồng chí Trần Quốc Hoàn (Bộ trưởng Bộ Công an khi đó). Tất cả đều mừng rỡ vì tìm lại được con gái của người liệt sĩ Anh hùng Nguyễn Thị Lợi. Chính vì thế, chỉ trong một thời gian ngắn, mọi thủ tục công nhận bà Tường Vân là con gái liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi đã nhanh chóng hoàn thành. Bà được Bộ Công an nuôi dưỡng đến khi trưởng thành và được giúp đỡ theo học Trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp.
  Tô Lan Hương

Nguyễn Thị Lợi, nữ Anh hùng Công an nhân dân (Thuận Thảo & Phương An - An Giang)


Nguyễn Thị Lợi, nữ Anh hùng Công an nhân dân
Cập nhật ngày: 21/08/2013 20:39:21
Ngày đất nước ta giành được chính quyền (19-8-1945) cũng là ngày lực lượng Công an nhân dân (CAND) ra đời với nhiệm vụ cao cả là bảo vệ Đảng, chính quyền và nhân dân. Đây là ngày mà mỗi cán bộ, chiến sĩ Công an tự hào về lớp lớp thế hệ cha anh mưu trí, dũng cảm, không quản ngại gian khổ, “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, ghi vào lịch sử những chiến công bất diệt. Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi là một trong những chiến sĩ CAND tiêu biểu.
 
 Tượng đài Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Lợi dựng trong khuôn viên Công an tỉnh Thanh Hóa. Ảnh:

Anh hùng Nguyễn Thị Lợi, sinh năm 1911, quê quán An Giang. Sau khi kết hôn, bà sống ở miền Bắc với chồng và hai người con, một gái, một trai. Được một thời gian, trên đường về Nam, bà hứng chịu nỗi đau quá lớn trước sự ra đi vĩnh viễn của người con trai mới sinh chưa lâu. Bà dừng chân tại Thanh Hóa, được gia đình đồng chí Hoàng Đạo (lúc bấy giờ là Tổ trưởng Tổ Điệp báo A13) cưu mang. Nhận thấy đây là người phụ nữ bản lĩnh, thông minh, kiên trung, có tố chất của một chiến sĩ điệp báo, đồng chí Hoàng Đạo quyết định kết nạp Nguyễn Thị Lợi vào Tổ Điệp báo do ông phụ trách.
Chiến dịch Việt Bắc, Thu – Đông 1947 thất bại đánh dấu sự phá sản của chiến lược đánh nhanh thắng nhanh mà thực dân Pháp đặt nhiều kỳ vọng. Chính phủ bù nhìn Bảo Đại được thực dân Pháp quan tâm lập ra âm mưu dùng người Việt trị người Việt, hòng lôi kéo, mua chuộc các thế lực phản động chống phá cách mạng, gây chia rẽ, suy yếu Mặt trận dân tộc thống nhất. Nắm được âm mưu của địch, Ty Điệp báo Trung ương chủ động, khéo léo đưa điệp viên thâm nhập vào bộ máy Chính phủ Bảo Đại. Trong vai trò Quốc vụ khanh, đồng chí Hoàng Đạo đã thực hiện rất tốt nhiệm vụ được giao, xâm nhập và đứng vững trong bộ máy Chính phủ Bảo Đại. Để dễ dàng khống chế, địch chủ động đề nghị Quốc vụ khanh Hoàng Đạo đưa phu nhân ra Hà Nội chung sống. Thực dân Pháp cho chiến hạm Amyot D'Inville, một trong những Thông báo hạm lớn nhất của Pháp trong khu vực Thái Bình Dương, đón phu nhân Quốc vụ khanh.
Trước tình hình mới, cấp trên lệnh cho đồng chí Hoàng Đạo kết thúc nhiệm vụ trong hàng ngũ địch để nhận nhiệm vụ khác. Đồng thời, qua phân tích tình hình, ta quyết định đánh bom Amyot D'Inville nhằm tiêu diệt nặng nề sinh lực địch, giáng đòn mạnh mẽ vào tinh thần xâm lược, làm phá sản âm mưu chiến tranh của thực dân Pháp. Điệp báo Hà Nội và Thanh Hóa được giao nhiệm vụ thực hiện nhiệm vụ quan trọng nhưng rất nguy hiểm này. Nhân vật cốt yếu đảm bảo cho thắng lợi là người đóng vai phu nhân Quốc vụ khanh. Trước nhiệm vụ vinh quang, Nguyễn Thị Lợi đã chủ động nói với đồng chí Hoàng Đạo: “Tôi hiểu rất rõ ý nghĩa của trận đánh này, tôi xin nộp cho tổ chức một bức thư tình nguyện cảm tử, mong tổ chức chấp nhận lời đề nghị của tôi”. Trong thư, bà viết: “Tôi Nguyễn Thị Lợi quê Phú Châu – Châu Đốc. Chiến sĩ tình báo xin tình nguyện hy sinh cho Tổ quốc, rửa nhục cho thù nhà…”. Phần tái bút, bà dành riêng cho Hoàng Đạo: “Cảm ơn anh đã cưu mang em, đưa em từ một người con gái bất hạnh về với cách mạng và vinh dự được đứng trong đội ngũ điệp báo. Có thể cuộc chia tay này là sự ra đi mãi mãi nên em có lời cầu mong anh sau này… hãy tìm lại người con gái đầu tiên của em và thay em nuôi dạy nó nên người ”. Xúc động nghẹn ngào trước tấm lòng và ý chí quyết tâm của người đồng chí, Hoàng Đạo nắm chặt tay Nguyễn Thị Lợi và nói: “Cảm ơn em - nữ đồng chí kiên trung. Ngày mai bắt đầu vào trận đánh, nếu như trận này thắng lợi thì đó là chiến công lịch sử mà em là người quyết định cho thắng lợi này”.
Trong vai phu nhân của Quốc vụ khanh, đêm 26-9-1950, đồng chí Nguyễn Thị Lợi (bí số A16) đàng hoàng lên tàu Amyot D'Inville. Lấy lý do sức khỏe, phu nhân Quốc vụ khanh vào phòng nghỉ mang theo 30kg thuốc nổ được đựng trong một chiếc valy mà thực dân Pháp cứ ngỡ là thuốc phiện. Khoảng 30 phút sau, chiến hạm Amyot D'Inville nổ tung, đem theo mạng sống của hơn 200 sĩ quan địch, cùng với hàng trăm tấn thuốc nổ mà thực dân Pháp dự định chi viện cho quân đội Pháp ở Việt Nam và làm phá sản âm mưu của thực dân Pháp. Đồng thời, khiến uy tín của quân đội Pháp ở Việt Nam cũng như uy tín của giới cầm quyền ở Pháp bị sụt giảm nghiêm trọng. Đó cũng là một trong những chiến công vang dội của lực lượng tình báo Công an nhân dân trong thời kỳ đầu mới thành lập, góp phần thắng lợi cho cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc.
Ghi nhận chiến công của bà, ngày 3-8-1995, Nhà nước ta truy tặng cho nữ điệp viên Nguyễn Thị Lợi danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân. Tượng đài Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Thị Lợi được dựng trong khuôn viên Công an tỉnh Thanh Hóa với niềm tin luôn phù hộ cho cán bộ, chiến sĩ Công an tiếp nối truyền thống, lập nhiều chiến công. Thị xã Sầm Sơn (Thanh Hóa) có một trường cấp ba và con đường mang tên Nguyễn Thị Lợi.
Quê hương An Giang tự hào sinh ra, nuôi dưỡng và đóng góp cho cách mạng nói chung, lực lượng CAND nói riêng, người nữ anh hùng tiêu biểu. Tên bà đã ghi vào lịch sử, vào truyền thống hào hùng của lực lượng CAND Việt Nam, soi đường cho lớp lớp thế hệ cán bộ, chiến sĩ cả nước nói chung, cán bộ, chiến sĩ Công an An Giang nói riêng tiếp bước.           
Th.S THUẬN THẢO- Th.S PHƯƠNG AN
 (Trường Chính trị Tôn Đức Thắng)

Lần đầu tôn vinh nữ anh hùng tình báo (Duy Linh - Nông Nghiệp)


Lần đầu tôn vinh nữ anh hùng tình báo

Duy Linh   -9/21/2012 10:44:52 AM
Lần đầu tiên, một phần của điệp vụ đánh chìm tàu thông báo hạm của Pháp Amyot DInville (27/9/1950) - chiến công nổi tiếng của ngành tình báo Việt Nam - được lên sóng màn ảnh nhỏ qua bộ phim truyền hình “Chiến hạm nổ tung” (30 tập, đạo diễn Trần Chí Thành và Khương Đức Thuận). Phim đang phát sóng trên HTV9 vào lúc 17g30 phút hằng ngày.
Tôn vinh nữ anh hùng
Chuyện phim xoay quanh nhân vật nữ chính dựa trên nguyên mẫu nữ anh hùng Nguyễn Thị Lợi. Trong phim, đó là một thôn nữ Nam bộ, bế con từ Châu Đốc ra Bắc tìm chồng. Người mẹ ấy phải gánh chịu những nỗi đau: Con bị pháo của Pháp bắn chết ngay trên tay chị, chồng đã có vợ mới... Hai lần chị tìm đến cái chết, hai lần được đồng bào và các chiến sĩ công an cứu mạng, trong đó có Văn Hoàng (Trưởng ty Công an Thanh Hóa). Cảm mến nghĩa cử đẹp đẽ của Văn Hoàng, chị đi theo cách mạng và nhận nhiệm vụ cảm tử, mang 30kg thuốc nổ lên con tàu Amyo D'Inville, thực hiện điệp vụ đánh chìm tàu thông báo hạm của Pháp vào ngày 27/9/1950.
Chiến hạm nổ tung là bộ phim truyền hình lịch sử do Đại tá - nhà văn Nguyễn Xuân Hải chuyển thể từ tiểu thuyết tình báo nổi tiếng "Câu lạc bộ chính khách" của nhà văn Lê Tri Kỷ. Đây là tác phẩm hấp dẫn nhiều thế hệ độc giả một thời với câu chuyện của những điệp báo viên trong thời chiến tranh chống Pháp. Họ là những con nguời dũng cảm, tài ba, mưu trí.
Diễn viên Huệ Minh vào vai anh hùng Nguyễn Thị Lợi
Đạo diễn Khương Đức Thuận chia sẻ: “Sau nhiều lần lựa chọn, chúng tôi quyết định Huệ Minh vào vai anh hùng Nguyễn Thị Lợi và cô đã thành công với nhiều trường đoạn nội tâm. Cũng tình cờ, Huệ Minh có nét mặt cương nghị của một chiến sĩ cách mạng, tuy nhiên cô lại biểu cảm tốt vẻ sang trọng, hách dịch khi sắm vai phu nhân ngài Quốc vụ khanh Văn Hoàng”.
Chiến hạm thật
"Ngay khi phim phát sóng tập đầu tiên, chúng tôi đã nhận được phản hồi của gia đình Anh hùng liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi về chi tiết chị Lợi khi bế con ra Bắc tìm chồng đã bị gia đình nhà chồng khinh rẻ, xua đuổi… Đây là chi tiết trong tiểu thuyết "Câu lạc bộ chính khách" của nhà văn Lê Tri Kỷ, tuy nhiên trong kịch bản tôi đã viết theo hướng khác, rất nhân văn: Chị Lợi ra Bắc gặp chồng, anh chồng rất thương vợ nhưng thời điểm đó gia đình ép lấy vợ khác, không phải hắt hủi chị Lợi như trong phim. Nhà văn Lê Tri Kỷ đã phải mất 30 năm mới hoàn thành tiểu thuyết nhưng ông ấy thay đổi hoàn toàn tên nhân vật từ nguyên mẫu và thêm nhiều chi tiết hư cấu. Tôi chuyển thể kịch bản cũng hư cấu, cho dù có những chuyện này chuyện nọ nhưng mục đích cuối cùng là để nhân vật chị Lợi đẹp hơn lên", nhà văn Nguyễn Xuân Hải chia sẻ.
Đạo diễn Khương Đức Thuận cho biết, để tìm được các bối cảnh phù hợp với những cảnh quay năm 1948-1950, đoàn làm phim phải trải qua hành trình rất gian nan, từ Hòa Bình, Hà Nội, Thanh Hóa, Huế, Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh và mất gần một năm mới thực hiện xong phần quay.
Theo đó, đạo diễn phải năn nỉ người quen lái vài chiếc xe jeep cổ thời Pháp từ TP. Hồ Chí Minh ra Hà Nội để phục vụ cảnh quay. Riêng bối cảnh nhà của nhân vật Văn Hoàng, đoàn làm phim phải mất hai tháng mới tìm được căn nhà ở Mai Châu (Hòa Bình) cho phù hợp. Đoàn làm phim cũng phải thuyết phục, làm công văn, gửi giấy xin phép cả mấy tháng trời để được quay vài ngày trong một tòa nhà thời Pháp-phục vụ bối cảnh tổng hành dinh quân đội Pháp. "Tuy nhiên, khó nhất là chiến hạm Amyo D’Inville. Đoàn liên hệ với quân đội mượn một chiếc tàu nhưng chiếc tàu này không đủ lớn như chiến hạm Amyo D’Inville của Pháp. Chúng tôi phải xử lý bằng các góc máy “ăn gian”, phóng đại con tàu thành chiến hạm to lớn rồi cho nổ tung bằng kỹ thuật 3D", đạo diễn Đức Thuận chia sẻ.
Bên cạnh dàn diễn viên đẹp, nổi tiếng và có nghề, điểm đặc biệt của “Chiến hạm nổ tung” là có sự tham gia diễn xuất của nghệ sĩ Bùi Công Duy trong vai vua Bảo Đại. Bùi Công Duy chưa từng đóng phim nên ban đầu anh gặp ít nhiều khó khăn trong việc vào vai một ông vua nghiện thuốc, thích người đẹp và có tác phong chậm rãi. Tuy nhiên, với nỗ lực của mình, diễn xuất của Bùi Công Duy trong "Chiến hạm nổ tung" hứa hẹn mang đến những thú vị và giúp khán giả hiểu thêm về vua Bảo Đại cùng những cuộc tình nổi tiếng một thời của ông.
"Chiến hạm nổ tung kể câu chuyện về ba chiến sĩ điệp báo Văn Hoàng, Trúc Lâm, Nguyễn Thị Lợi. Thông qua họ, phim đề cập đến chiến công của ngành công an (giai đoạn 1948-1950), trong đó lẫy lừng nhất là trận đánh đắm chiến hạm Amyot D’Inville của giặc Pháp rạng sáng 27/9/1950", đạo diễn Đức Thuận cho biết.

Dùng mưu đánh chìm thông báo hạm (Đỗ Nam Trung - Quân Đội Nhân Dân)


Dùng mưu đánh chìm thông báo hạm



QĐND - Thứ Ba, 23/08/2011, 17:45 (GMT+7)
QĐND - Vụ đánh chìm tàu Thông báo hạm Pháp A-mi-ô Đanh-vin (Amyot d’inville) là một chiến công nổi tiếng của ngành tình báo trẻ tuổi Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp.
Trung tướng Chu Duy Kính, nguyên Tư lệnh quân khu Thủ đô, người điệp viên đã trực tiếp mang mìn lên đánh chiếc tàu chiến Pháp này vừa khiêm tốn kể lại với chúng tôi về chiến công xuất sắc của tổ Điệp báo Công an A13.
Điệp viên A15
Chu Duy Kính người thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh. Tham gia Cách mạng từ năm 1944, thời kháng chiến chống Pháp anh được cử vào hoạt động nội thành Hà Nội trong cương vị bí thư chi bộ kiêm đội trưởng đội vũ trang tuyên truyền thành. Năm 1949, Kính bị giặc Pháp bắt giam ở trại giam sân bay Bạch Mai. Địch tra tấn dã man nhưng không khai thác được gì ở anh. Chàng thanh niên vùng quê quan họ này đã dũng cảm vượt ngục, chui qua đoạn cống ngầm dài 700m ở sân bay ra vùng tự do. Ngay sau đó anh được gặp Trần Quốc Hoàn, bí thư Đặc khu ủy Hà Nội. Chu Duy Kính đã trả lời bí thư Trần Quốc Hoàn về tình hình sân bay, đề nghị tổ chức bộ đội chui qua đường cống ngầm đánh sân bay. Nhận lệnh đồng chí Phùng Thế Tài, chỉ huy mặt trận Hà Nội, ngày 18-1-1950 Kính dẫn một đơn vị của Tiểu đoàn 108 bộ đội địa phương Hà Nội mang mìn đánh sân bay Bạch Mai, phá hủy 25 máy bay chiến đấu, đốt một kho xăng lớn trong sân bay cháy sáng rực bầu trời Hà nội suốt trong 2 ngày đêm liền.
Năm 1995 tại Sầm Sơn, các đồng chí Chu Duy Kính (trái), Hoàng Đạo (giữa) và Kim Sơn thăm lại nơi xuất phát đi đánh tàu chiến Pháp. Ảnh do nhân vật cung cấp
Đồng chí Nguyễn Thanh, nguyên bí thư Đảng ủy Bộ Công an cho biết:
- Giữa năm 1950, đồng chí Trần Quốc Hoàn chịu trách nhiệm trực tiếp chỉ đạo hoạt động của tổ điệp báo A13 đã nghe các đồng chí lãnh đạo công an Hà Nội báo cáo về những thành tích xuất sắc của tổ điệp báo A13, xin ý kiến về việc cử thêm một điệp báo viên tăng cường vì hiện tổ mới có hai người là A13 Hoàng Đạo và A14 Kim Sơn. Các đồng chí quyết định cử Chu Duy Kính.
 Thế là vừa thoát tù, mới tham gia chiến đấu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, người thanh niên ấy lại tiếp tục tiến vào mặt trận thầm lặng với tên mật Lê Mai, bí số A15.
Đại úy Gioóc Kim Sơn
Chịu nhiều thất bại trong các năm 1947, 1948, 1949, đầu 1950, Quốc trưởng bù nhìn Bảo Đại đã đặt vấn đề với Pháp để có chủ trương: “Tập hợp quanh mình nhiều thế lực chính trị bao gồm lãnh tụ một số đảng: Đại Việt, Việt Nam Quốc dân Đảng; một số lãnh đạo các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên và cả một số người đã theo chính phủ Hồ Chí Minh tự nguyện trở về với chính quyền thân Pháp”.
Cùng với một số người kháng chiến hồi cư vào vùng địch tạm chiếm, Kim Sơn, một thanh niên trí thức Nam Bộ lịch lãm, đẹp trai đã bị địch kết án tử hình nhưng trốn thoát, tham gia công an, làm đội trưởng “Đội Hành động chi Lam Điền” ở đường 5 đã nhận lệnh vào hoạt động hậu địch mang bí số A14. Kim Sơn đóng giả là một đại đội trưởng quân đội Việt Minh không chịu được gian khổ vào sống sung sướng trong nội thành. Do giỏi tiếng Pháp, có trình độ toàn diện nên Kim Sơn được các giới chính quyền thân Pháp nể vì, được phong Đại úy mang tên Pháp là Gioóc. Anh nhận nhiệm vụ dụ dỗ một số người kháng chiến vào làm việc trong Hà Nội.
Kim Sơn tìm cách giới thiệu Hoàng Đạo với Thiếu tá Đuy-pờ-ra, trưởng phòng tình báo Pháp. Đuy-pờ-ra tỏ vẻ rất hài lòng nếu có người như Hoàng Đạo làm việc với mình.
Quốc vụ khanh Hoàng Đạo, lãnh đạo Đảng Phục Việt
Sau khi rời khỏi vị trí Trưởng ty Công an Thanh Hóa, qua Kim Sơn, Hoàng Đạo đã nhận nhiệm vụ vào hoạt động hậu địch, là tổ trưởng tổ điệp báo A13 mang bí số A13. Hoàng Đạo vốn là một công nhân quê gốc Nam Bộ, một con người thẳng thắn, có bản lĩnh, thông minh đã tìm cách tiếp cận với Nguyễn Đình Tại, Giám đốc Công an ngụy quyền Bắc Kỳ. Khi Tại kiêu ngạo hỏi, anh hai Nam Bộ này đã thẳng thắn trình bày:
- Tôi đang là lãnh đạo Đảng Phục Việt Quốc gia Cách mạng, một lực lượng lớn có chiến khu bí mật ở vùng kháng chiến Thanh Hóa, nghe ông Kim Sơn nên mới vào đây để cùng các ông tỏ rõ lòng yêu nước với thiên hạ. Những người có lòng tự trọng dân tộc nên biết: Nếu sợ chết thì tôi đã không dại gì đi làm việc tại đây.
Nguyễn Đình Tại hơi bất ngờ nhưng qua nhiều lần thẩm tra Hoàng Đạo, đã dần tin ở anh. Người tổ trưởng điệp báo nóng tính nhưng chân thật này đã dần có tín nhiệm với nhiều quan chức Hà Nội, cả với Bảo Đại cùng nhiều tướng Pháp như A-lếch-xan-đờ-ri, quyền Tổng tư lệnh quân đội Pháp ở Đông Dương và Cút-sô cố vấn của Bảo Đại.
Hoàng Đạo đã được chính quyền Bảo Đại công nhận là lãnh đạo Đảng Phục Việt, một lực lượng có tín nhiệm ngoài vùng kháng chiến của Việt Minh vào thành hợp tác với lực lượng Quốc gia trong chính phủ, sau được phong hàm Quốc vụ khanh.
Chính vì thế nên tổ điệp báo A13 có nhiều thuận lợi trong hoạt động, thực hiện nhiều chủ trương chỉ đạo của các cấp trên, báo được nhiều tin quan trọng ra vùng tự do.
Đánh chìm Thông báo hạm Pháp A-mi-ô Đanh-vin
 Thời gian này cơ quan mật thám Pháp gửi ảnh của Chu Duy Kính (Lê Mai) đi khắp nơi để truy tìm “tên Việt Minh đã đánh sân bay Bạch Mai ngày 18-1-1950”. 
Đồng thời, Nha Công an Trung ương đã lệnh cho Hoàng Đạo nhanh chóng chuyển anh em trong tổ điệp báo A13 ra ngoài vùng tự do nhận nhiệm vụ mới.
Cả tổ A13 đều muốn có một chiến công cuối trước khi ra vùng tự do. Cũng vào dịp này, Quốc vụ khanh Hoàng Đạo nhận thư của vợ chồng Thiếu tá Đuy-pờ-ra và Trung tướng A-lếch xăng-đờ-ri mời vợ Hoàng Đạo đến nhà chơi rồi ở hẳn lại Hà Nội với mục đích chính là để tiện theo dõi và mua chuộc vợ chồng ông. Hoàng Đạo đề nghị được cho tàu đón cả đoàn vào đêm 26 rạng sáng 27-9-1950 tại Sầm Sơn. Đuy-pờ-ra vui vẻ nhận lời.
Cuộc họp quan trọng của tổ điệp báo A13 bàn việc nổ mìn đánh tàu chiến Pháp kéo dài gần suốt một đêm tại rặng phi lao ven biển Sầm Sơn. Theo dự kiến: Khi tàu chiến Pháp đến, Kim Sơn lên tàu trước, sau đó là Hoàng Đạo rồi đến chị Nguyễn Thị Lợi (đóng giả vai vợ Hoàng Đạo ra Hà Nội chữa bệnh). Đi cuối là Lê Mai xách va-li quần áo cho vợ Hoàng Đạo, trong có quả mìn và một số đồ ngụy trang, trọng lượng tổng cộng khoảng 30kg. Khó khăn nhất là công việc của Lê Mai. Anh phải cố gắng xách va-li chứa mìn nặng sao cho thật nhẹ nhàng như xách va-li quần áo.
Từ chiều 26-9-1950, Hoàng Đạo, Kim Sơn, Lê Mai và Nguyễn Thị Lợi ra điểm hẹn bên một rặng phi lao ở Sầm Sơn. Ánh trăng trung thu tháng Tám vừa lên thì bỗng nhiên một cơn giông kéo đến. Ánh đèn chiếc tàu chiến Pháp xuất hiện ngoài khơi. Hoàng Đạo, Kim Sơn, Nguyễn Thị Lợi rồi Lê Mai xách chiếc va-li xuống một chiếc thuyền đi dần ra khơi. Con thuyền cặp sát mạn chiếc tàu Pháp mang bên sườn dòng chữ trắng: Amyot d’Inville.
Một chiếc thang dây được thả xuống. Kim Sơn lên trước nói bằng tiếng Pháp:
- Chúng tôi thuộc đoàn Quốc vụ khanh Hoàng Đạo. Ông bà Hoàng Đạo sẽ lên sau.
- Tôi là Trung tá Ô-băng, Thuyền trưởng Amyot d’Inville 07, nhận lệnh đón các ông.
Trung tá thuyền trưởng đến thang đón Hoàng Đạo và phu nhân, mời vào buồng khách. Chị Lợi bị say sóng, một số thủy thủ đưa chị vào một buồng ngủ lịch sự gần đấy. Lê Mai xách chiếc va-li theo chị vào buồng. Tạo thời gian cho Lê Mai hoạt động, Hoàng Đạo hỏi Ô-băng về đặc điểm của chiếc tàu chiến này. Trung tá thuyền trưởng say sưa kể:
- Đây là loại Thông báo hạm lớn có tốc độ 35 hải lý giờ, được trang bị lựu pháo 105mm. Mấy hôm nữa tàu chúng tôi sẽ từ Việt Nam sang chiến đấu ở Triều Tiên.
Trong lúc này, Lê Mai nhanh chóng dùng răng bẻ gãy mấy ống a-xít, cắm vào mấy kíp nổ ở quả bom. Theo bảo đảm kỹ thuật của quân giới mà Mai đã được học, sau một thời gian quy định, a-xít ăn mòn kíp nổ, khối thuốc sẽ nổ tung.
Quốc vụ khanh Hoàng Đạo nói với thuyền trưởng:
- Cảm ơn ngài Trung tá đã giúp chúng tôi. Do có một chút việc cần giải quyết tiếp ở Thanh Hóa, tôi phải quay lại. Tối nay chúng tôi sẽ cùng phái đoàn của chính phủ ra Hòn Mê ăn bữa cơm chiều với các ông tại hòn đảo thơ mộng này rồi cùng ra Hà Nội.
Hoàng Đạo vào buồng an ủi Lợi, chia tay tên thuyền trưởng và các sĩ quan trên tàu rồi xuống thuyền. Trời đã hết mưa. Chiếc thuyền đưa Hoàng Đạo, Kim Sơn, Lê Mai đến chân Hòn Độc Cước. Ngồi trên núi, các anh yên lặng, không ai nói gì, nhìn đồng hồ.
Phía chân trời một ánh chớp sáng rực, một cột khói lửa bốc cao rồi một tiếng nổ lớn.
Lúc này là 11 giờ 30 phút ngày 27-9-1950.
Mọi người sung sướng vì đã hoàn thành nhiệm vụ. Cuối cùng ai nấy đều cúi đầu lấy khăn lau mắt tiếc thương, vĩnh biệt người nữ điệp viên Nguyễn Thị Lợi.
* * *
Sau đó liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi đã được truy tặng Huân chương Quân công hạng 3. Nhân kỷ niệm 50 năm ngày truyền thống Công an nhân dân Việt Nam (19-8-1945/19-8-1995), Nhà nước đã truy tặng liệt sĩ Nguyễn Thị Lợi danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Trong dịp kỷ niệm này, chị Tường Vân, con gái duy nhất của điệp viên Nguyễn Thị Lợi cùng tổ điệp báo A13 đã đến Sầm Sơn thăm lại vị trí xuất phát chuyến đi cuối cùng của liệt sĩ.
Đỗ Nam Trung

Người chèo thuyền cuối cùng còn sống trong trận đánh đắm Thông báo hạm A-miô-đanh-vin lịch sử (Phương Thủy - Công An Nhân Dân)



Ở Công an Thanh Hóa, trước mỗi trận đánh lớn, CBCS lại thắp hương trước tượng đài nữ anh hùng Nguyễn Thị Lợi, bởi họ tin rằng, người chiến sỹ điệp báo anh hùng này sẽ phù hộ để họ chiến thắng trở về. Niềm tin chưa bao giờ vơi cạn, cứ nhân lên như một sự tri ân đối với người phụ nữ đã hy sinh thân mình cho sự nghiệp bảo vệ quê hương. Và, sau mỗi trận đánh, họ lại đến bên tượng đài, thắp nén nhang thơm để báo công với vị nữ anh hùng…
Chúng tôi về Sầm Sơn đúng vào ngày bão đổ bộ vào Việt Nam. Ở Thanh Hóa, dù không bị ảnh hưởng trực tiếp nhưng những cơn sóng cao ngất cũng liên tục ập vào bờ, gió lật lá những rặng phi lao đứng quật cường ven biển. Nơi anh hùng Nguyễn Thị Lợi và đoàn cán bộ tổ điệp báo A13 xuất phát trong chuyến tàu ra biển đánh đắm Thông báo hạm A-miô-đanh-vin của Thực dân Pháp giờ đã được chính quyền và nhân dân dựng bia tưởng niệm.
60 năm về trước, tại vị trí này, tổ điệp báo của lực lượng Công an và 4 dân quân địa phương chèo thuyền đã xuất phát trong trận đánh lịch sử. Thấm thoát thoi đưa, bây giờ, 4 thanh niên chèo thuyền năm ấy thì 3 người đã về theo tiên tổ. Người còn lại cuối cùng giờ cũng đã 86 tuổi, mắt ông đã mờ, chân đã chậm nhưng ký ức về những chuyến chèo thuyền năm xưa vẫn còn tươi mới. Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà cấp 4 cũ kỹ ở khu phố Thân Thiện, phường Trung Sơn, Thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa, không ít lần giọng ông đã lạc đi khi nhớ về đồng chí, đồng đội của mình.
Ông tên là Nguyễn Hữu Sen, nguyên là cán bộ dân quân du kích bảo vệ quê hương. Sau khi hoàn thành sứ mệnh chèo thuyền trong trận đánh A-miô-đanh-vin, ông tiếp tục tham gia các công tác ở địa phương, trải qua nhiều cương vị từ Chủ nhiệm HTX nông nghiệp, Phó Chủ tịch, Chủ tịch UBND xã rồi Bí thư Đảng ủy xã.
Năm 1982, ông nghỉ hưu sống với con gái. Bây giờ, hai cha con, một già một trẻ nương vào nhau lúc trái gió trở trời. Nhìn ngôi nhà cấp 4 cũ kỹ, gian ngoài chừng chục mét vuông để làm phòng khách, bên trong cũng non chừng ấy diện tích, kê hai chiếc gường sát vào nhau chỉ còn chút lối đi ở giữa, tôi thấy thương cảm cho ông. Cả một đời cống hiến, đến lúc về già cũng chả có gì cho riêng mình. Mức lương cán bộ xã hơn 800.000/tháng, chỉ đủ cho bố con ông đắp đổi qua ngày nên ngôi nhà cũ đã dột nát nhiều nhưng cũng không có tiền sang sửa. Đành vậy, ông bảo. Chỉ mong đừng sóng to, bão lớn, nếu không bố con ông sẽ không biết nương tựa vào đâu...
Ông Nguyễn Hữu Sen kể chuyện về những chuyến chèo đò giúp tổ điệp báo trong việc đánh đắm hạm A - miô - đanh – vin.

Trong những năm kháng chiến, bãi biển Sầm Sơn quê ông là một trong những vị trí quan trọng ở Vịnh Bắc Bộ mà thực dân Pháp nhắm tới. Chính vì vậy, ở đây, phong trào giác ngộ cách mạng sớm được dấy lên. Năm 20 tuổi, ông Sen tham gia dân quân du kích địa phương, dạy chữ quốc ngữ trong phong trào bình dân học vụ, tham gia khởi nghĩa ở Sầm Sơn, thành lập Ủy ban kháng chiến lâm thời ở địa phương. Chính vì vậy, khi Nha Công an Trung ương chỉ đạo Công an Thanh Hóa tạo vỏ bọc đưa các điệp viên của ta vào "Chính phủ Quốc gia" của vua Bảo Đại, đồng chí Hoàng Đạo (Bí số A13) cùng các đồng chí Kim Sơn (A14), Chu Duy Kính (A15) được đưa vào hoạt động trong lòng địch.
6 người trong đội dân quân du kích địa phương giác ngộ nhất được đồng chí Hoàng Đạo trực tiếp tuyển vào đội chèo thuyền, trong đó ông Cao Sỹ Quyết, tổ trưởng Tổ Đảng chỉ đạo chung, ông Văn Đình Oong làm nhiệm vụ thông báo các nội dung đến từng thành viên, chuẩn bị hậu cần và các công việc khác. 4 người được giao nhiệm vụ chèo thuyền gồm các ông Nguyễn Hữu Sen, Nguyễn Hữu Chức, Văn Đình Đồ và Lê Nhữ Trông. Trong khoảng 2 năm rưỡi, từ năm 1948 đến khi hoàn thành nhiệm vụ vào ngày 27/9/1950, hàng trăm lần, các ông đã chở tổ điệp báo ra chiến hạm.
Ông Sen bồi hồi nhớ lại: "Hồi đó còn nghèo lắm, mỗi lần chở các anh ấy (tổ điệp báo - PV) đi, chúng tôi phải chuẩn bị khoai luộc để phòng sóng to, gió lớn không về được hoặc lúc đói lòng. Các chuyến đi thường xuất phát từ 20-21h, chèo khoảng 4 tiếng thì đến được hạm. Nếu các anh ấy bảo đợi thì chúng tôi cắm neo cách tàu Pháp khoảng mấy chục mét. Khi nhận được tín hiệu, chúng tôi lại áp thuyền vào đưa các anh ấy về".
Tín hiệu mà tổ điệp báo và các ngư dân quy định với nhau đó là cách thức vẫy chiếc đèn pin. Nói đến đấy, giọng ông Sen hồ hởi hẳn lên "Các anh ấy cho chúng tôi một cây đèn pin to lắm, sáng quắc. Đêm bão bùng mà có chiếc đèn ấy thì khỏi phải lo. Chúng tôi bảo vệ chiếc đèn pin ấy như bảo vệ con ngươi trong mắt mình bởi nhỡ sơ sẩy rơi hỏng thì coi như hỏng việc lớn. Theo quy định tín hiệu là việc vẫy đèn pin. Nếu đêm nào tổ điệp báo không đi từ trong bờ ra, chúng  tôi đều cử người ngồi trên các cây phi lao để trông ra biển, nhỡ các anh ấy cần vào. Chính vì vậy, khi có tín hiệu khoát đèn 3 lần vào phía trong, là chúng tôi hiểu. Nếu an toàn, chúng tôi cũng làm tương tự để các anh ấy biết rồi chèo thuyền ra đón, nếu có dấu hiệu gì lạ, chúng tôi dùng đèn pin xua tay...
Trong hàng trăm chuyến đi như vậy, các tổ công tác đã gặp không ít khó khăn, nguy hiểm. Có những đêm, trời mưa buốt, gió biển thổi lồng lộng, từng giọt mưa ngấm dần vào những vạt áo mỏng lạnh thấu xương. Có lần, đang đi thì biển nổi sóng, mưa dữ dội, nguy hiểm cận kề. Dù vậy, với kinh nghiệm của những người chèo thuyền chuyên nghiệp, các ông đã neo thuyền theo hướng gió, đưa các đồng chí làm nhiệm vụ và vũ khí đi đến nơi, về đến chốn an toàn. Sau những đêm chèo thuyền vất vả, trở về nhà, những dân quân yêu nước này lại trở thành những ngư dân chèo chống cuộc sống gia đình”.
Ông Sen nhớ lại "hôm nào về sớm thì chúng tôi đi đánh cá luôn, hôm nào về muộn, không kịp đi thì đành ở nhà, nhiều hôm bị vợ con cau có nhưng đành phải chấp nhận". Điều đáng trân trọng nhất, đó là sự hy sinh không tính toán thiệt hơn của những người lái thuyền năm xưa. Trong suốt 2 năm rưỡi đưa đón tổ điệp báo A13, họ hầu như không được bồi dưỡng chút gì, kể cả thuyền là phương tiện đi lại cũng là tài sản cá nhân của họ, khoai lang cũng của nhà đem đi.
Ông kể rằng: "Chỉ một lần duy nhất chúng tôi được bồi dưỡng, đó là hôm thực dân Pháp cho tàu đưa vũ khí, súng đạn vào tập kết ở nhà ông Cao Sỹ Quyết. Chúng tôi được lệnh vận chuyển lên Ty Công an sơ tán. Nhận lệnh, 8 người khênh 4 hòm đạn đi suốt đêm từ 8h tối đến 5h sáng thì đến được Ty Công an ở huyện Đông Sơn. Sau khi giao vũ khí xong, mỗi người được bồi dưỡng 1 hào để ăn xôi sáng rồi về". Ông Sen kể về sự vất vả của mình thoải mái như chính tấm lòng ông dành cho Cách mạng.
Sau khi đồng chí Hoàng Đạo đã móc nối sâu được với điệp báo Pháp và được giữ chức vụ Quốc vụ khanh trong chính quyền Bảo Đại, Bộ Công an đã quyết định kết thúc chuyên án. Tối 26/9/1950, cũng như những lần trước, 4 người chèo thuyền nhận nhiệm vụ đưa tổ điệp báo ra hạm như mọi lần. Hôm đó, lên tàu, không chỉ có đồng chí Hoàng Đạo, Kim Sơn, Chu Duy Kính như thường lệ mà còn một phụ nữ khoảng hơn 30 tuổi, người miền Nam, rắn rỏi, cương nghị, sau này các ông mới biết đó là nữ điệp báo Anh hùng Nguyễn Thị Lợi. Trong vai phu nhân Quốc vụ khanh đi chữa bệnh, chị Lợi đã đưa khối thuốc nổ lên tàu và lập chiến công xuất sắc, đánh đắm Thông báo hạm A-miô-đanh-vin vào sáng sớm 27/9/1950.
Ông Sen nhớ lại "Hôm đó, trời se se lạnh, chị Lợi mặc áo sáng màu, trông khá trẻ và xinh đẹp, dễ mến. Vì nhiệm vụ quan trọng nên chúng tôi không dám hỏi gì, chị ấy cũng vậy, chỉ ngồi trên thuyền nhìn ra biển xa. Lúc đến hạm, chúng tôi, người neo dây thuyền, người cùng với anh Hoàng Đạo đỡ chị Lợi lên tàu. Sau khi xong việc, chúng tôi về nhà. Đến khoảng gần 5h sáng, một ánh chớp sáng lòe lóe lên giữa bầu trời rồi cột khói cao ngất trùm biển khơi, kèo theo đó là tiếng nổ dữ dội. Chúng tôi cùng nhân dân đi xem, ai cũng vui mừng vì đoán chắc tàu của Pháp bị nổ. Chúng tôi cũng không hề biết rằng, chị Lợi đã dũng cảm hy sinh. Hai ngày sau khi Thông báo hạm A-miô-đanh-vin bị đắm, ông Sen và ông Chức đã vinh dự được đứng trong hàng ngũ của Đảng vì lập thành tích xuất sắc.
Sau chiến thắng vang dội trên, những người chèo thuyền lại quay về với cuộc sống thường nhật của các ngư dân ăn sóng nói gió. Hy sinh, đóng góp là vậy nhưng có những thời điểm họ bị hiểu nhầm, bị tổ chức, nhân dân xa lánh vì nghi tiếp tay cho giặc. Như trường hợp ông Cao Sỹ Quyết, tổ trưởng Tổ Đảng, người được gặp gỡ, trao đổi với các đồng chí trong tổ điệp báo nhiều nhất, gia đình ông cũng là nơi tập kết vũ khí của Pháp mỗi khi chúng vận chuyển vào cho "Chính phủ Quốc gia". Những nhiệm vụ này phải hoàn toàn bí mật, kể cả với đồng chí, đồng đội và gia đình của mình. Chính vì vậy, ông và gia đình bị hiểu nhầm.
Rất may, chỉ một thời gian ngắn sau, chính đồng chí Hoàng Đạo đã về địa phương, chính thức thông báo chiến công của ông Quyết và những cán bộ khác để chính quyền và nhân dân hiểu. Dù vậy, những ngư dân này cũng không lấy điều đó làm buồn bởi đối với họ, thành tích không phải là những phần thưởng, là Huân, Huy chương hay những gì cao hơn nữa, mà quan trọng là họ đã được đóng góp công sức nhỏ bé của mình cho đất nước, quê hương.
Đến bây giờ cũng vậy, sau khi trải qua nhiều cương vị công tác ở địa phương, ông Sen nghỉ hưu với mức trợ cấp 850 nghìn đồng/tháng. Số tiền nhỏ đó, hai bố con trang trải qua ngày. Dẫu vẫn chưa được tặng thưởng thứ gì đáng kể, dẫu mọi trợ cấp khác có lẽ vẫn ở trên bàn của một cấp nào đó nhưng ông vẫn ấm lòng, bởi đồng đội của ông, họ cũng vậy, chỉ một lòng vô tư cống hiến cho quê hương. Đó mới là mục đích cuối cùng. Nhưng, một điều mà người chèo thuyền cuối cùng cũng như người dân Sầm Sơn trăn trở, đó là họ muốn tượng của Anh hùng Nguyễn Thị Lợi được đặt ở nơi năm xưa bà đã ra đi, để những người con của Sầm Sơn sau này có điều kiện để chiêm ngưỡng, tưởng nhớ công lao của người nữ anh hùng
Phương Thủy

Lực lượng Phòng cháy, chữa cháy: Chặng đường xây dựng và trưởng thành


Lực lượng Phòng cháy, chữa cháy: Chặng đường xây dựng và trưởng thành

Ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/LCT của Chủ tịch nước công bố ”Pháp lệnh quy định việc quản lý Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC.



I/  THỰC HIỆN NHIỆM VỤ GÓP PHẦN XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ 

QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ 1945 ĐẾN NĂM 1986
1. Hoạt động của lực lượng PCCC trước, trong, sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống thực dân Pháp (giai đoạn từ năm 1945 

đến năm 1954)

Đầu năm 1945, một số anh em binh sỹ Sở Cứu hỏa Sài Gòn - Chợ Lớn đã 

bắt liên lạc với cán bộ cách mạng và đã tổ chức nhiều cuộc diễn thuyết tố 

cáo sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp ở đồn điền cao su Phú Riềng, 

xưởng đóng tàu Ba Son và đồng thời thành lập tổ chức thanh niên tiền phong và Việt Minh của Sở để tổ chức giành chính quyền cơ sở.

Ngày 24/8/1945, Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn là một trong 6 đơn vị treo cờ đỏ sao vàng đầu tiên của thành phố, cờ đỏ sao vàng đã phấp phới bay trên đỉnh tháp tập của Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn, tiếp đó ngày 

28/8/1945 anh em Sở chữa lửa Sài Gòn - Chợ Lớn đi trên xe chữa cháy tham gia diễu hành cùng hàng vạn người của thành phố. Sau ngày đó, Sở đã giao 2 chiến sỹ chữa cháy bảo vệ lá cờ đỏ sao vàng và một trong hai chiến sỹ trên (đồng chí Hạnh Bum) đã hy sinh dưới tháp tập vì thực dân 

Pháp trở lại xâm lược nước ta đã bắn chết đồng chí Hạnh. 8h00 ngày 24/9/1945 chiến sỹ Sở cứu hỏa được lệnh rút ra căn cứ, tối 24/9 tổ chức 

đánh vào Sở chữa lửa giải phóng cướp xe chữa cháy rút về Gò Đen, Bến Lức, Long An tham gia cuộc kháng chiến chống Pháp nhưng 3 xe chữa cháy bị kẹt lại ở thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn.

Thất bại ở Điện Biên Phủ 7/5/1954, thực dân Pháp có ý đồ di chuyển 

phương tiện, xe chữa cháy của Hà Nội rút vào Nam nhưng Tổ công đoàn  

do đồng chí Nguyễn Văn Dần, lái xe, đảng viên 1949 hoạt động bí mật chỉ 

huy đã đấu tranh giữ toàn bộ phương tiện chữa cháy của Sở cho đến ngày 

giải phóng Thủ đô và ngày 11/10/1954 đoàn cán bộ thuộc Sở Liêm Phóng vào tiếp quản đội cứu hỏa Hà Nội, tháng 12/1954 Đại đội cứu hỏa Hà Nội thuộc Phòng Trị an dân cảnh được thành lập với 7 xe chữa cháy và gần 60 cán bộ chiến sỹ.

2. Lực lượng PCCC trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc và  kháng chiến chống Mỹ thống nhất đất nước (giai đoạn từ năm 1955  đến năm 1975)

Ngày 01/01/1955 Đại đội cứu hỏa Hà Nội nhận nhiệm vụ cử một tiểu đội tham gia bảo vệ lễ đài Ba Đình trong buổi mít tinh của nhân dân Thủ đô chào mừng Đảng và Chính phủ sau 9 năm kháng chiến trở về Thủ đô. 

Cũng trong ngày này, lực lượng PCCC vinh dự được Bác Hồ thân mật bắt tay từng người một và Người đã có lời chúc Tết, lời chúc Tết năm đó luôn là mục tiêu phấn đấu của lực lượng CSPCCC cho đến bây giờ, lời chúc đó là “Nhân dịp năm mới, Bác chúc các chú thất nghiệp nhưng phải tích cực học tập”.

Ngày 27/6/1955 Bộ Công an có Chỉ thị 479/TA-TF hướng dẫn việc phòng hỏa, cứu hỏa và quy định đó là nhiệm vụ của mọi người nhằm bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân, bảo vệ các công trình kiến thiết, các cơ sở kinh tế quốc gia, ngăn ngừa hành vi phản cách mạng và phá hoại của kẻ địch. 

Ngày 30/12/1955 Chính phủ có Thông tư 3366/CP về việc giao Bộ Công an quản lý công tác phòng, cứu hỏa và tiếp nhận xe và máy bơm chữa cháy do Liên Xô viện trợ.

Ngày 27/3/1956 Bộ Công an có Chỉ thị số 347/TA về việc xây dựng lực lượng PCCC chuyên nghiệp ở miền Bắc. Ngày 01/06/1956 Bộ Công an có quyết định số 1175/V2 quy định về nguyên tắc, nhiệm vụ, cơ cấu và chế độ làm việc của đội cứu hỏa, trong đó còn quy định rõ đội cứu hỏa thành phố, thị xã là một bộ phận của Cảnh sát nhân dân.

Thực hiện Thông tư của Chính phủ và Chỉ thị của Bộ Công an, cuối năm 1956, 11 đơn vị phòng hỏa, cứu hỏa của các tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hồng Quảng, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nam, Hải Dương, Lạng Sơn, Phú Thọ, Thái Nguyên lần lượt được thành lập; lực lượng cứu hỏa bắt đầu chỉnh quân, tập luyện và tập huấn nghiệp vụ PCCC, PCCC xăng dầu do chuyên gia Liên Xô dạy.

Đến năm 1958 Bộ Công an có Quyết định thành lập Phòng phòng cháy, chữa cháy (P8) thuộc Vụ trị an dân cảnh (V10) của Bộ Công an.

Tháng 7 năm 1959, Bộ Công an đã đưa đoàn học sinh đầu tiên đi học tại Trường Trung học PCCC Lêningrat - Liên Xô gồm 6 đồng chí. Đến tháng 9/1963 lớp cán bộ đầu tiên của ta tốt nghiệp ra trường về nước nhận công tác. 

Công tác cử người đi đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật PCCC tiên tiến như Liên Xô, Cộng hòa dân chủ Đức được Bộ Công an đặc biệt quan tâm. Tính từ 1962 đến năm 1991 đã có 116 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học PCCC Matxcơva – Liên Xô, 61 đồng chí được đào tạo tại Trường Trung cấp Lêningrat, 30 đồng chí được đào tạo tại Trường Đại học kỹ sư thực hành PCCC ở Cộng hòa dân chủ Đức. Đặc biệt có 16 đồng chí đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sỹ khoa học PCCC ở Liên Xô.

Trước yêu cầu phát triển kinh tế ở miền Bắc (kế hoạch 5 năm lần thứ nhất 1961-1965). Bộ Công an giao cho Vụ Trị an dân cảnh xây dựng một văn bản pháp quy về PCCC để đề nghị Nhà nước ban hành (lúc đó tham gia xây dựng văn bản này có đồng chí Nguyễn Tăng Điện, sau này đồng chí là Cục trưởng Cục PCCC, Thiếu tướng, Phó TCT Tổng cục Hậu cần, Bộ Công an). 

Đến ngày 12/8/1961 bản dự thảo Pháp lệnh được Hội đồng Chính phủ trình lên Ủy ban thường vụ Quốc hội. Đến ngày 4/10/1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký lệnh số 53/ LCT của Chủ tịch nước công bố “Pháp lệnh quy định việc quản lý của Nhà nước đối với công tác PCCC”. Sự kiện này đánh dấu sự thay đổi về chất trong công  tác PCCC của Nhà nước, đồng thời mở ra một trang mới trong lịch sử của lực lượng Cảnh sát PCCC. Một tình huống đáng lưu ý là tên gọi của dự thảo văn bản pháp quy này qua từng bước có sự thay đổi cho đúng hơn: Đầu tiên Bộ Công an dự thảo là “Luật phòng hỏa, cứu hỏa Việt Nam”, đến Văn phòng Nội chính Phủ Thủ tướng đề nghị là “Pháp lệnh quy định việc giám sát của Nhà nước đối với công tác phòng hỏa, cứu hỏa”, Ủy ban thường vụ Quốc hội sửa hai chữ “giám sát” thành hai chữ “quản lý”. Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên nội dung của tên gọi, chỉ thay đổi cụm từ “phòng hỏa, cứu hỏa” bằng cụm từ “phòng cháy và chữa cháy” cho dễ hiểu hơn. Người nói vui: Xảy ra cháy thì phải “chữa” chứ sao lại “cứu”, như vậy đủ thấy sự quan tâm của Bác Hồ và cơ quan lập pháp đối với công tác PCCC.

Tiếp đó ngày 28/12/1961, Chính phủ ra Nghị định số 220/CP để hướng dẫn thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC. Ngày 29/12/1961, Chính phủ ra Nghị định 221/CP để hướng dẫn công tác PCCC rừng.

Ngay sau Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước đối với công tác PCCC được ban hành, lực lượng PCCC đã nhanh chóng xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy từ trung ương đến các địa phương trên toàn miền Bắc. 

Ở Trung ương, Cục PCCC chính thức được thành lập, Cục có 3 Phòng và 1 trạm thí nghiệm, quân số của Cục có 29 người. 

Ở các địa phương miền Bắc, các đơn vị phòng cháy, chữa cháy: Hà Bắc, Ninh Bình, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Thái Bình, Hà Tĩnh,… lần lượt được thành lập.

Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt là trong những năm chống chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng không quân của đế quốc Mỹ, lực lượng PCCC đã tổ chức xây dựng được phong trào quần chúng tham gia công tác PCCC rộng khắp, làm nòng cốt trong phong trào ba phòng “phòng gian, phong gián, phòng hỏa”; kiểm tra an toàn PCCC các nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, nông trường, công trường…, nghiên cứu đề xuất ban hành tiêu chuẩn PCCC để thiết kế xây dựng nhà, công trình công nghiệp và dân dụng, chuẩn bị lực lượng và phương tiện thường trực sẵn sàng chữa cháy; tham mưu đề xuất và chỉ đạo, hướng dẫn việc sơ tán, phân tán tài sản, vật tư chiến lược, vũ khí, đạn dược; đặc biệt đã phối hợp với lực lượng dân phòng khắc phục khó khăn, không ngại hy sinh gian khổ, sáng tạo và dũng cảm chiến đấu dập lửa, cứu tài sản, hàng hóa trong làn bom đạn của giặc Mỹ, dập tắt kịp thời hàng ngàn vụ cháy. Điển hình là các vụ chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh Bình, đơn vị PCCC đã được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (01/01/1967); vụ chữa cháy 4 xà lan lớn chở xăng dầu trên Vịnh Hạ Long, đơn vị PCCC Hòn Gai được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (1/1/1967); vụ chữa cháy thị xã Đồng Hới, Quảng Bình, đơn vị PCCC Quảng Bình được tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ cho ta ở cảng Hải Phòng và vụ chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng, đơn vị PCCC Hải Phòng được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ chữa cháy khu lắp ráp tên lửa ở đồi Nhơm, Triệu Sơn, Thanh Hóa, đơn vị PCCC Thanh Hóa được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973); vụ 
chữa cháy tổng kho xăng dầu Đức Giang và hàng trăm vụ cháy lớn phức tạp khác xảy ra trong chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội, đội PCCC Lộc Hà được phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2/9/1973). Đặc biệt là vụ chữa cháy kho xăng dầu Đức Giang, do biết vận dụng sáng tạo kỹ thuật và chiến thuật phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế của chiến tranh, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt nhanh chóng đám cháy cứu được hàng ngàn tấn xăng dầu, với thành tích này lực lượng Cảnh sát PCCC Thủ đô đã được Bác Hồ gửi thư khen, trong đó có 4 điều dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC.

Trong cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu, chế tạo trên 5.000 bom cháy và vũ khí gây cháy phục vụ việc đánh phá kho tàng, hậu cứ của địch. Trong cuộc tổng tiến công giải phòng miền Nam năm 1975, lực lượng Cảnh sát PCCC đã theo sát quân chủ lực tiếp quản những đô thị mới được giải phóng và triển khai kịp thời lực lượng, phương tiện và các biện pháp PCCC, góp phần giữ gìn và ổn định an ninh trật tự cho nhân dân.

Ngày 20/7/1971 Bộ Công an quyết định thành lập Phân hiệu PCCC gọi tắt là Phân hiệu 11 thuộc Trường Cảnh sát nhân dân với nhiệm vụ đào tạo, bồi 

dưỡng nghiệp vụ PCCC cho cán bộ sỹ quan, hạ sỹ quan của lực lượng 

CSPCCC.

Tháng 7/1973 sau khi giải phóng Quảng Trị, lực lượng PCCC đã chi viện 

33 cán bộ chiến sỹ để thành lập đơn vị PCCC Quảng Trị, đơn vị này có 

nhiệm vụ bảo vệ các chuyến hàng vận chuyển vào miền Nam theo đường 

mòn Hồ Chí Minh, bảo vệ đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời 

cộng hòa miền Nam Việt Nam và đại diện các đoàn ngoại giao của các 

nước tại Quảng Trị.

Tháng 3/1975 Thừa Thiên Huế được giải phóng, lực lượng PCCC đã cử 

cán bộ vào tiếp quản thành phố Huế và thành lập phòng Cảnh sát PCCC 

Bình Trị Thiên.

Ngày 29/3/1975 Bộ quyết định điều động 182 cán bộ chiến sỹ và 30 xe 

chữa cháy của Cục và 11 đơn vị các tỉnh phía Bắc chi viện cho chiến 

trường B2 và tham gia đoàn tiếp  quản, quản lý thành phố Sài Gòn và chi 

viện cho Ban an ninh nội chính miền Nam Việt Nam. 

Ngày 30/4/1975 đoàn cán bộ PCCC của Công an Hà Nội đã phối hợp với 

lực lượng PCCC chi viện cho chiến trường B2 tiếp quản Sở chữa lửa Sài 

Gòn - Chợ Lớn và Phòng Cảnh sát PCCC thành phố Sài Gòn được thành 

lập. Tiếp đó lần lượt các đơn vị PCCC miền Trung Nam Bộ, đồng bằng 

Sông Cửu Long, Tây Nguyên và Lâm Đồng được thành lập.

3. Lực lượng PCCC bảo vệ công cuộc xây dựng đất nước sau ngày miền 

Nam hoàn toàn giải phóng (giai đoạn  từ năm 1976 đến năm 1986)

Sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước 

bước vào thời kỳ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh, lực lượng Cảnh sát 

PCCC vừa củng cố, xây dựng lực lượng tại các tỉnh phía Nam, vừa thực 

hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia PCCC; kiểm 

tra, hướng dẫn biện pháp an toàn cho các kho tàng, bến bãi, cơ sở kinh tế, 

quốc phòng, phục vụ phát triển kinh tế. Trong lúc đất nước gặp khó khăn 

về nhiên liệu, lại liên tiếp xảy ra cháy hầm lò khai thác than, việc cứu chữa 

rất khó khăn vì thiếu phương tiện, thiết bị đặc chủng, nhưng với sự sáng 

tạo trong việc ứng dụng KHKT, lực lượng Cảnh sát PCCC đã ngăn chặn 

và dập tắt không để gây thiệt hại nghiêm trọng, điển hình là chữa cháy mỏ 

than Ngọc Kinh (Đà Nẵng) lực lượng Cảnh sát PCCC đã sáng tạo dùng 

khói bom Napan để dập tắt đám cháy; vụ cháy mỏ than Vàng Danh sâu 

trong lòng đất gây nhiều khó khăn cho công tác cứu chữa, bằng những giải 

pháp khoa học, sáng tạo, lực lượng Cảnh sát PCCC đã dập tắt đám cháy, 

giúp Mỏ khôi phục hoạt động, khai thác ngay sau đó.

Ngày 2/9/1976 đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn ký quyết định thành 

lập Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC trực thuộc Cục Cảnh sát PCCC 

trên cơ sở Phân hiệu 11 của Trường Cảnh sát nhân dân.

Đến 19/6/1984 do yêu cầu đào tạo cán bộ, Hội đồng Bộ trưởng (nay là 

Thủ tướng Chính phủ) đã có quyết định số 90/QĐ/HĐBT thành lập 

Trường Cao đẳng PCCC. Ngày 6/11/1984, Bộ trưởng Phạm Hùng ký 

Quyết định nâng Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát PCCC thành Trường Cao 

đẳng PCCC trực thuộc Tổng cục Cảnh sát. 

II/  LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PCCC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI 

MỚI VÀ CNH – HĐH ĐẤT NƯỚC (GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1986  ĐẾN 

NĂM 2011)
1. Công tác xây dựng văn bản pháp luật về PCCC
Để kịp thời phục vụ sự nghiệp phát triển KT - XH và công cuộc đổi mới 

của đất nước, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, lực lượng 

Cảnh sát PCCC đã tham mưu, đề xuất, giúp Bộ Công an từng bước hoàn 

thiện hành lang pháp lý trong lĩnh vực PCCC. Các văn bản đã xây dựng và 

đề xuất ban hành là:

- Tổng kết 30 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước 

đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ 

Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 175/TTg ngày 

31/5/1991 về tăng cường công tác PCCC; 

- Tổng kết 35 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước 

đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện Chỉ thị 175/TTg ngày 31/5/1991 

về tăng cường công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu 

cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 

237/TTg ngày 19/4/1996 về tăng cường các biện pháp thực hiện công tác 

PCCC;

- Tổng kết 40 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước 

đối với công tác PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu , đề xuất  

và đã được Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 9 thông qua Luật PCCC và có 

hiệu lực thi hành từ ngày 4/10/2001. Tiếp theo đó đã đề xuất Chính phủ 

ban hành 4 Nghị định: Nghị định số 35/2003/NĐ-CP ngày 4/4/2003 của 

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật PCCC; Nghị 

định số 123/2005/NĐ-CP ngày 5/10/2005 của Chính phủ quy định xử phạt 

vi phạm hành chính trong lĩnh vực PCCC; Nghị định số 09/2006/NĐ-CP 

ngày 16/01/2006 của Chính phủ quy định về PCCC rừng; Nghị định 

130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo 

hiểm cháy, nổ bắt buộc. Đề xuất Bộ Công an ban hành 3 Thông tư về 

PCCC: Thông tư 04/2004/TT-BCA của Bộ Công an hướng dẫn thi hành 

Nghị định 35/2003/NĐ-CP ngày 04/4/2003 của Chính phủ quy định chi tiết 

thi hành một số điều của Luật PCCC; Thông tư liên tịch Tài chính – Công 

an số 41/2006/TTLT-TC-CA về hướng dẫn một số điều về Nghị định 

130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 của Chính phủ quy định chế độ bảo 

hiểm cháy, nổ bắt buộc; Thông tư liên tịch Bộ Xây dựng – Bộ Công an số 

04/2009/TTLT-BXD-BCA ngày 10/4/2009 hướng dẫn thực hiện việc cấp 

nước phòng cháy, chữa cháy tại đô thị và khu công nghiệp;

- Tổng kết 45 năm thi hành Pháp lệnh quy định việc quản lý của nhà nước 

đối với công tác PCCC, 5 năm thực hiện  Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát 

PCCC đã tham mưu cho Bộ Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban 

hành Chỉ thị số 02/2006/CT-TTg ngày 23/01/2006 về tăng cường chỉ đạo 

và thực hiện có hiệu quả công tác PCCC;

- Tiến tới kỷ niệm 50 năm ngày ban hành Pháp lệnh PCCC và tổng kết 10 

năm thi hành Luật PCCC, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ 

Công an đề xuất Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 1634/CT-TTg 

ngày 31/8/2010 về việc tăng cường chỉ đạo và thực hiện một số nhiệm vụ 

cấp bách, trọng tâm trong công tác PCCC và CNCH;

- Chủ trì và phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng, rà soát, bổ sung 

chỉnh lý trên 40 quy chuẩn, tiêu chuẩn về PCCC và hàng chục quy trình 

công tác;

Hiện đang tiếp tục xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật về 

PCCC: Nghị định về phối hợp Công an – Quốc phòng trong công tác 

PCCC; Nghị định về công tác  cứu nạn, cứu hộ…; các Thông tư, tiêu 

chuẩn, quy chuẩn PCCC khác.

2. Công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC
Xác định công tác tuyên truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC là 

một biện pháp phòng ngừa xã hội và là hoạt động mang tính xã hội rộng 

rãi, cần có sự phối, kết hợp của các cấp, các ngành và quần chúng nhân 

dân. Do vậy, ngay từ những năm đầu thời kỳ đổi mới, lực lượng Cảnh sát 

PCCC đã không ngừng đổi mới phương pháp, biện pháp nhằm nâng cao 

hiệu quả công tác tuyên truyền và phát động phong trào quần chúng 

PCCC.

a)Về công tác tuyên truyền
- Ngoài các hình thức tuyên truyền trên hệ thống truyền thanh của xã, 

phường, thị trấn…; tổ chức tuyên truyền lưu động; phát hành khuyến cáo, 

tờ rơi về PCCC; treo, gắn pa nô, khẩu hiệu về PCCC trong các dịp Tuần 

lễ quốc gia về ATVSLĐ-PCCN, dịp 4/10 hàng năm…, lực lượng Cảnh sát 

PCCC đã tổ chức nhiều hoạt động tuyên truyền phong phú như tổ chức 

các cuộc thi tác phẩm báo chí, thi sáng tác tranh, ảnh về PCCC, tổ chức 

liên hoan phim truyền hình, sân khấu hóa các hoạt động PCCC, tổ chức 

chương trình tuyên truyền cổ động trực quan…     
                                           
 - Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và 

địa phương phản ánh và thông tin kịp thời các vụ cháy, các hoạt động 

PCCC của các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị; lồng ghép nội dung 

PCCC vào các chương trình trò chơi trên truyền hình như ”Chiếc nón kỳ 

diệu”, “Ở nhà chủ nhật”, “Ai là triệu phú”, “Đấu trường 100”… Tổ chức 

tuyên truyền đậm nét vào dịp “Ngày toàn dân PCCC’, dịp mùa hanh khô 

và Tết Nguyên đán, dịp diễn ra các sự kiện chính trị lớn của đất nước… 

bằng các phóng sự, chuyên đề cảnh báo nguy cơ cháy và hướng dẫn các 

biện pháp PCCC, các đúp tuyên truyền, cổ động nhắc nhở người dân 

PCCC; tổ chức các buổi tọa đàm, đối thoại về PCCC…

b) Về công tác xây dựng phong trào toàn dân PCCC
- Vận dụng quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong 

công tác PCCC là: Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia 

hoạt động PCCC, trong hoạt động PCCC lấy phòng ngừa là chính và mọi 

hoạt động PCCC trước hết phải được giải quyết bằng lực lượng và phương 

tiện tại chỗ, trong những năm qua, phong trào toàn dân tham gia PCCC 

ngày càng phát triển sâu rộng. Đặc biệt là từ khi Thủ tướng Chính phủ có 

Quyết định số 369/TTg ngày 04/6/1996 lấy ngày 4/10 hàng năm là “Ngày 

PCCC toàn dân”, theo đó, cứ đến dịp này tại các địa phương trên cả 

nước, hàng vạn quần chúng nhân dân đã nô nức tham gia các hoạt động 

PCCC như: Mít tinh, diễu hành biểu dương lực lượng; hội thao, hội thi 

PCCC; tham gia ký cam kết đảm bảo an toàn PCCC tại các chợ và khu 

dân cư…; việc triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong công tác 

PCCC được nhiều địa phương hưởng ứng như TP Hồ Chí Minh, Thái 

Nguyên, Nam Định, Hà Nội…; công tác xây dựng và nhân điển hình tiên 

tiến về PCCC được chú trọng duy trì, hàng năm các địa phương đã xét và 

công nhận được hàng trăm đơn vị điển hình tiên tiến về PCCC;  mô hình 

“Cụm dân cư an toàn PCCC”, “Câu lạc bộ chiến sỹ PCCC trẻ tuổi” tiếp 

tục được nhân rộng, đặc biệt Hải Phòng đã nghiên cứu triển khai và duy trì 

hiệu quả mô hình “Cụm cơ quan, doanh nghiệp an toàn PCCC” trên địa 

bàn, hiện Nam Định và Thái Nguyên đang vận dụng kinh nghiệm này vào 

thực tiễn địa phương mình.

- Việc xây dựng và duy trì hoạt động của lực lượng PCCC tại chỗ trong 

điều kiện kinh tế thị trường mặc dù gặp nhiều khó khăn, song theo thống 

kê, cả nước hiện đã xây dựng được trên 65.000 đội PCCC cơ sở và dân 

phòng với trên một triệu đội viên, hàng năm lực lượng này đã phát hiện và 

tổ chức dập tắt kịp thời trên 60% tổng số vụ cháy, góp phần ngăn chặn 

nguy cơ cháy lớn, gây thiệt hại nghiêm trọng.

3. Công tác kiểm tra an toàn PCCC và quản lý vật liệu nổ công nghiệp
a) Về công tác kiểm tra an toàn PCCC
- Lực lượng Cảnh sát PCCC thường xuyên tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ 

chuyên môn để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra; tăng 

cường công tác điều tra cơ bản, phân loại cơ sở thuộc diện quản lý về 

công tác PCCC theo quy định. Đổi mới công tác kiểm tra, trong đó nhiều 

địa phương đã tranh thủ đề xuất Đại diện Hội đồng nhân dân, lãnh đạo 

UBND địa phương tham gia chủ trì kiểm tra trực tiếp và giải quyết một số 

vấn đề bức xúc về công tác PCCC trên địa bàn, từ đó đã có tác động tích 

cực đến người đứng đầu đơn vị, cơ sở trong việc đảm bảo an toàn PCCC 

trong cơ quan, đơn vị mình.

- Hàng năm đã tổ chức nhiều đợt kiểm tra theo chuyên đề (chợ, trung tâm 

thương mại, khu dân cư, nhà cao tầng, các cơ sở xăng dầu, dầu khí, vật 

liệu nổ công nghiệp…) vào các dịp diễn ra các sự kiện chính trị quan trọng 

của đất nước, dịp mùa hanh khô và bảo vệ Tết Nguyên đán. Qua kiểm tra 

đã phát hiện và kiến nghị cơ sở và cơ quan, tổ chức khắc phục kịp thời các 

sơ hở, thiếu sót và vi phạm quy định về PCCC.

- 25 năm qua, toàn lực lượng Cảnh sát PCCC đã kiểm tra và phúc tra về 

PCCC được 1.845.213 lượt cơ sở, lập 1.762.319 biên bản kiểm tra; phát 

hiện và hướng dẫn khắc phục trên 4.500.000 thiếu sót, tồn tại về PCCC.

b) Về công tác quản lý vật liệu nổ công nghiệp
- Đã tích cực chủ động phối hợp với các lực lượng trong ngành Công an 

và các cơ quan liên quan tăng cường kiểm tra, giám sát việc sản xuất, cung 

ứng, sử dụng của các đơn vị có hoạt động về vật liệu nổ công nghiệp 

(VLNCN). Tại các kho đầu mối trên cả nước, trung bình mỗi cơ sở được 

kiểm tra an toàn PCCC ít nhất 2 lần/năm. 

- Công tác quản lý, cấp phép vận chuyển VLNCN được đảm bảo chặt 

chẽ, đúng quy định và có những bước chuyển biến rõ rệt về các thủ tục 

hành chính, giảm thời gian nhưng vẫn đảm bảo an toàn tuyệt đối trong quá 

trình vận chuyển.

Trong 25 năm qua, với nỗ lực của lực lượng Cảnh sát PCCC đã góp phần 

không để xảy ra 1 sự cố cháy, nổ và mất cắp VLNCN tại các kho đầu 

mối, đảm bảo an toàn các sự kiện quan trọng của đất nước.

4. Công tác thẩm duyệt về PCCC
Trong 25 năm qua, lực lượng Cảnh sát PCCC đã thẩm duyệt về PCCC 

trên 68.000 công trình, trong đó:

- Giai đoạn 1986 – 2000, giai đoạn trước khi có Luật PCCC: Số dự án, 

công trình được thỏa thuận về thiết kế và thiết bị PCCC là 18.692 công 

trình.

- Giai đoạn 2001 – 2010, giai đoạn sau khi có Luật PCCC: Số dự án, công 

trình được thỏa thuận thiết kế và thiết bị PCCC là 49.316 công trình.

Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, số lượng các dự án, công trình xây 

dựng được thẩm duyệt tăng lên tương ứng, nhất là các công trình quy mô 

lớn, phức tạp, cơ sở có dây chuyền công nghệ hiện đại ngày càng nhiều. 

Nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn nêu trên, lực lượng Cảnh sát PCCC đã 

không ngừng đổi mới công tác thẩm duyệt về thiết kế và thiết bị PCCC (về 

thời gian; về phương pháp thực hiện; về áp dụng tiêu chuẩn, quy chuẩn, 

đặc biệt là các tiêu chuẩn, quy chuẩn nước ngoài). Trong quá trình thẩm 

duyệt và nghiệm thu, lực lượng Cảnh sát PCCC đã hướng dẫn chủ đầu tư, 

đơn vị thiết kế về những giải pháp, biện pháp PCCC, đồng thời kiến nghị 

khắc phục hàng chục vạn thiếu sót, vi phạm quy định, tiêu chuẩn về PCCC 

từ khi thiết kế công trình… Điển hình là khi thẩm duyệt về PCCC Trạm 

biến áp 500KV của Nhà máy Thủy điện Hòa Bình, Cục Cảnh sát PCCC 

kiên quyết yêu cầu thực hiện xây tường ngăn cháy giữa 7 trạm biến áp 

(Chủ đầu tư và cơ quan thiết kế chỉ muốn xây dựng tường ngăn cháy bao 

quanh 7 máy). Ngày 25/4/2000, sét đánh gây cháy, nổ 1 trạm biến áp làm 

phun dầu ra xa hơn 20 mét gây cháy lớn nhưng do có tường ngăn cháy 

từng máy nên không cháy lan sang 6 máy còn lại (mỗi máy trị giá khoảng 

1,2 triệu USD).

5. Công tác hướng dẫn và tổ chức chữa cháy và CNCH
- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã chủ động xây dựng mới, chỉnh lý, bổ sung 

các bài chiến thuật chữa cháy, biện pháp chữa cháy đối với các cơ sở, dây 

chuyền công nghệ mới như: Chiến thuật chữa cháy đối với các cơ sở chế 

biến, chuyền tải dầu mỏ, khí đốt; chiến kỹ thuật chữa cháy đối với chợ, 

trung tâm thương mại, nhà nhiều tầng, các cơ sở sản xuất có quy mô 

lớn…, xây dựng tài liệu hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị PCCC mới 

phù hợp với thực tế.

- Công tác xây dựng và thực tập phương án chữa cháy luôn được nghiên 

cứu đổi mới, hoàn thiện hơn. Từ phương án chữa cháy đã nghiên cứu xây 

dựng phiếu chiến thuật chữa cháy, trong đó thể hiện những nội dung cơ 

bản nhất, cần thiết nhất khi chữa cháy ở cơ sở và được tổ chức sử dụng có 

hiệu quả. Đã xây dựng và tổ chức diễn tập hàng chục phương án xử lý các 

tình huống cháy, nổ lớn có sự tham gia của nhiều lực lượng, phương tiện 

của các ngành, quân đội và nhiều địa phương.

- Lực lượng Cảnh sát PCCC đã tập trung khắc phục tình trạng thiếu chiến 

sỹ chữa cháy (tham mưu cho Bộ Công an tuyển chiến sỹ nghĩa vụ bổ sung 

cho lực lượng trực tiếp chữa cháy) và tổ chức khoa học, hợp lý công tác 

thường trực sẵn sàng chiến đấu. Hàng năm, lực lượng Cảnh sát PCCC đã 

phối hợp với lực lượng cơ sở, dân phòng và các lực lượng khác kịp thời 

cứu chữa nhiều vụ cháy lớn, nguy hiểm, hạn chế được thiệt hại mang lại 

hiệu quả tốt như: Vụ chữa cháy các kho đạn ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc 

và Quảng Nam Đà Nẵng; vụ chữa cháy tàu trên sông Cửu ở Cẩm Phả 

(Quảng Ninh); các vụ chữa cháy chợ Vinh (Nghệ An), chợ Sắt (Hải 

Phòng); vụ chữa cháy bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) đã bảo vệ an 

toàn khu nhà bệnh nhân… Chỉ tính riêng hiệu quả công tác chữa cháy, 

hàng năm lực lượng CSPCCC đã cứu được lượng tài sản khoảng 2.000 – 

3.000 tỷ đồng, đã trực tiếp cứu và tổ chức thoát nạn cho hàng trăm người.

- Ngoài việc trực tiếp tham gia chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã 

chủ động nghiên cứu, xây dựng và tổ chức thực hiện các phương án tham 

gia chống bạo loạn, gây rối, biểu tình, chống khủng bố; giải quyết các 

điểm nóng về an ninh nông thôn; cưỡng chế giải phóng mặt bằng; chống 

đua xe trái phép… và đã trực tiếp tham gia giải quyết nhiều vụ việc, đạt kết 

quả tốt được lãnh đạo các địa phương và nhân dân ghi nhận, góp phần 

xứng đáng vào thành tích chung của lực lượng CAND.

6. Công tác đầu tư trang bị phương tiện PCCC và CNCH
- Từ năm 1991 về trước, toàn bộ phương tiện chữa cháy trang bị cho lực 

lượng Cảnh sát PCCC là do Liên Xô và Cộng hoà dân chủ Đức viện trợ 

không hoàn lại, trung bình mỗi năm 20 xe chữa cháy, 20 máy bơm, 20.000 

mét vòi chữa cháy và một số trang thiết bị chữa cháy khác. 

- Từ sau năm 1991 đến nay, toàn bộ việc đầu tư trang bị phương tiện 

PCCC và CNCH nước ta phải tự lo. Tuy nhiên, mức đầu tư kinh phí cho 

lực lượng Cảnh sát PCCC rất hạn chế và công tác trang bị phương tiện 

chữa cháy gặp nhiều khó khăn, có năm, cả lực lượng Cảnh sát PCCC chỉ 

được cấp 900 triệu đồng để đầu tư, trang bị phương tiện PCCC. 

Trước thực trạng như vậy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã tham mưu cho Bộ 

Công an đề xuất Chính phủ cho phép  xây dựng và triển khai một số dự án 

sử dụng ngân sách của nhà nước, đồng thời thực hiện một số dự án vay 

vốn ưu đãi của nước ngoài để đầu tư cho hoạt động PCCC như dự án 

“Đầu tư nâng cấp phương tiện chữa cháy” trị giá 130 tỷ đồng; dự án “Đầu 

tư trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn cho lực lượng CSPCCC từ năm 2007 

đến năm 2015” trị giá hơn 500 tỷ đồng….

- Các Bộ, ngành và địa phương cũng đã quan tâm đến việc đầu tư cho 

hoạt động PCCC nói chung và trang bị phương tiện chữa cháy nói riêng. 

Đến nay có 42 địa phương đầu tư gần 400 tỷ đồng, trang bị thêm gần 100 

xe chữa cháy, 136 máy bơm, 12 xe thang, 2 xe cứu nạn, cứu hộ và nhiều 

phương tiện chữa cháy khác; xây dựng, cải tạo một số doanh trại, tạo thêm 

nguồn nước chữa cháy…

Trước năm 1991, chỉ có số ít phương tiện chữa cháy và chủ yếu là của 

các nước XHCN cũ, chất lượng không cao thì đến nay, toàn lực lượng 

Cảnh sát PCCC đã có 724 xe chữa cháy; 337 xe chuyên dùng; 325 máy 

bơm chữa cháy và nhiều trang thiết bị PCCC khác. Tuy nhiên, so với yêu 

cầu thực tế hiện nay thì vẫn thiếu rất nhiều phương tiện chữa cháy cũng 

như cứu nạn, cứu hộ, đặc biệt là các xe chuyên dùng như xe thang, xe hút 

khói, xe cấp cứu sự cố, xe thông tin chiếu sáng…

7/ Công tác xây dựng lực lượng Cảnh sát PCCC
- Ngày 14/10/1999, trước yêu cầu ngày càng cao về nguồn nhân lực phục 

vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, Thủ tướng Chính 

phủ đã ký Quyết định thành lập Trường Đại học PCCC trên cơ sở Trường 

Cao đẳng PCCC, Trường Đại học PCCC trực thuộc Bộ Công an và chịu 

sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Lực lượng CSPCCC được tổ chức và bố trí khắp trên toàn quốc từ 

Trung ương đến địa phương.

- Ở Trung ương có Cục Cảnh sát PCCC và cứu nạn, cứu hộ, gồm 9 đơn 

vị trực thuộc, đó là: Phòng Tham mưu (P1); Phòng Thanh tra, kiểm tra 

phòng cháy, chữa cháy(P2); Phòng Thẩm duyệt về phòng cháy, chữa cháy 

(P3); Phòng Công tác chữa cháy (P4); Phòng Hậu cần (P5); Phòng Tuyên 

truyền và xây dựng phong trào toàn dân PCCC và CNCH (P6); Phòng 

Hướng dẫn điều tra – xử lý về cháy, nổ (P7); Phòng Hướng dẫn, chỉ đạo 

công tác cứu nạn, cứu hộ (P8); Trung tâm Nghiên cứu khoa học và tư vấn, 

chuyển giao công nghệ PCCC và CNCH.

- Ở địa phương:
+ Trước năm 2006, cả nước có 64 Phòng Cảnh sát PCCC. 
+ Năm 2006, trước yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Thủ 

tướng Chính phủ đã quyết định thí điểm thành lập Sở Cảnh sát PCCC TP 

Hồ Chí Minh nhằm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với công tác 

PCCC tại Trung tâm kinh tế, chính trị lớn này.
+ Năm 2010, Chính phủ đã chủ trì tổ chức sơ kết 3 năm thí điểm thành lập 

Sở Cảnh sát PCCC và đánh giá đây là mô hình tốt cần nhân rộng.
+ Ngày 30/12/2010, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định thành lập thêm 

7 sở Cảnh sát PCCC tại các địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, 

Đà Nẵng, Cần Thơ, Bình Dương và Đồng Nai.

Tính đến đầu năm 2010, toàn quốc có 156 đội Cảnh sát PCCC với trên 

8.000 cán bộ, chiến sỹ.

8. Công tác nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật PCCC
Công tác nghiên cứu khoa học được triển khai mạnh mẽ, mang lại hiệu quả 

tích cực: 25 năm qua, lực lượng CSPCCC đã nghiên cứu và bảo vệ thành 

công trên 70 đề tài cấp Bộ và đề tài cấp cơ sở, 49 đề tài đã được ứng dụng 

vào thực tiễn, điển hình như: Nghiên cứu sản xuất bọt hòa không khí chữa 

cháy xăng dầu; ứng dụng chất chữa cháy không phá hủy tầng ôzôn trong 

hệ thống chữa cháy tự động; công nghệ sản xuất lăng phun nước chữa 

cháy cầm tay đa tác dụng L51-01-C23; nghiên cứu ứng dụng sản xuất chất 

tạo bọt A-B, sản xuất bình bột chữa cháy loại 2 và 5 kg phục vụ cho công 

tác trang bị phương tiện chữa cháy trong giai đoạn khó khăn 1986-1995…; 

ngoài ra còn phối hợp với các Bộ, ngành, các trường Đại học và các cơ sở 

sản xuất nghiên cứu trên 60 đề tài về PCCC.

9. Công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế
- Trước năm 1990, công tác đối ngoại của lực lượng CSPCCC chủ yếu là 

quan hệ với Liên Xô (cũ) và các nước XHCN Đông Âu trong việc trao đổi 

thông tin, kinh nghiệm thông qua các hoạt động hội nghị, hội thảo PCCC; 

cử cán bộ đi đào tạo cử nhân, kỹ sư, tiến sỹ khoa học kỹ thuật PCCC; tiếp 

nhận phương tiện chữa cháy do các nước này viện trợ. 

- Sau khi có biến động chính trị, tuy không còn nguồn viện trợ về phương 

tiện PCCC cũng như đào tạo cán bộ, song lực lượng CSPCCC tiếp tục 

giữ mối quan hệ truyền thống với các nước này, mặt khác chủ động mở 

rộng quan hệ hợp tác và cử nhiều đoàn công tác, tham quan tại các nước 

trong khu vực và các nước có nền khoa học phát triển như: Nhật Bản, Áo, 

Pháp, Đức, Mỹ, Hàn Quốc, Singapo, Thái Lan, Malaixya…; đã tham gia 

và là thành viên của Hiệp hội PCCC Thế giới (1993), tham gia vào Tổ 

chức các cơ quan kiểm định PCCC Châu Á; tham gia nhiều cuộc hội thảo 

trao đổi kinh nghiệm công tác PCCC, triển lãm quốc tế về lĩnh vực PCCC 

và cứu nạn, cứu hộ tại Châu Á, Châu Âu, Châu Mỹ… Qua đó đã nghiên 

cứu, học hỏi tiếp cận được với công nghệ PCCC tiến tiến và vận dụng hiệu 

quả vào điều kiện thực tế ở Việt Nam.


III/ PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ CÔNG TÁC PCCC TỪ NAY ĐẾN 

NĂM 2020 VÀ TẦM NHÌN 2030
1. Dự báo tình hình
- Kinh tế xã hội phát triển, kéo theo đó là các cơ sở sản xuất, kinh doanh, 

dịch vụ tăng nhanh cả về số lượng và quy mô; việc đầu tư của nước ngoài 

vào Việt Nam ngày càng tăng, xuất hiện ngày càng nhiều khu công nghiệp, 

khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao; việc sử dụng các nguồn 

năng lượng như xăng dầu, khí đốt, điện, hóa chất tăng mạnh kèm theo là 

quá trình đô thị hóa, nhiều nhà cao tầng được xây dựng…, dẫn đến nguy 

cơ cháy ngày càng cao, thiệt hại do cháy ngày càng lớn.

- Cháy lớn gây thiệt hại nghiêm trọng vẫn tập trung ở các cơ sản xuất, chợ, 

khu dân cư tập trung.

- Thời tiết, khí hậu ngày càng khắc nghiệt, khô hạn kéo dài và thảm họa 

thiên nhiên khác như động đất, sóng thần…

- Diễn biến quốc tế có liên quan (khủng bố, xung đột sắc tộc, tôn giáo) và 

tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trong nước có thể nảy 

sinh các vụ cháy, nổ.

2. Phương hướng nhiệm vụ
Với mục tiêu là kiềm chế sự gia tăng về số vụ cháy và thiệt hại do cháy gây 

ra, phương hướng, nhiệm vụ công tác PCCC từ nay đến năm 2020 và tầm 

nhìn 2030 cụ thể như sau:

a) Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật PCCC; hoàn thiện hành lang pháp lý 

về công tác PCCC, trước mắt tập trung rà soát bổ sung chỉnh lý và xây 

dựng các văn bản pháp luật, quy chuẩn, tiêu chuẩn cho phù hợp với tình 

hình thực tế hiện nay.

b) Hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và tổ chức triển khai 

Đề án quy hoạch tổng thể hệ thống cơ sở PCCC toàn quốc đến năm 2020 

và tầm nhìn đến năm 2030.

c) Phát huy sức mạnh tổng hợp của các hệ thống chính trị và toàn dân 

tham gia hoạt động PCCC, hình thành thế trận toàn dân PCCC. Quán triệt 

phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong công tác 

PCCC.

d) Nâng cao chất lượng, hiệu quả các biện pháp nghiệp vụ cơ bản về 

PCCC: Nắm tình hình, điều tra cơ bản; nắm bắt kịp thời các chủ trương, 

chính sách của Đảng, Nhà nước và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 

của đất nước để từ đó chủ động đề ra các giải pháp, chiến lược về PCCC 

cho các ngành, lĩnh vực kinh tế; quan tâm đến việc xây dựng và duy trì 

hoạt động của lực lượng PCCC tại chỗ; tăng cường chất lượng công tác 

chuyên môn nghiệp vụ PCCC cho cán bộ chiến sĩ trong lực lượng như 

nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền, kiểm tra, chữa cháy và công 

tác điều tra nguyên nhân vụ cháy…

đ) Tăng cường công tác đầu tư cho hoạt động PCCC và CNCH nhằm 

nâng cao năng lực và sức chiến đấu cho lực lượng CSPCCC và CNCH, 

xây dựng lực lượng này thực sự chính quy, tinh nhuệ và hiện đại. Từ nay 

đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030 tập trung vào đầu tư bổ sung, thay thế 

các phương tiện hư hỏng. Đặc biệt là tăng cường đầu tư cho lĩnh vực cứu 

hộ, cứu nạn; cải tạo nâng cấp, sửa chữa phương tiện chữa cháy…

e) Hoàn thiện cơ sở pháp lý và triển khai có hiệu quả nhiệm vụ cứu nạn, 

cứu hộ Chính phủ giao. Tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng lực lượng 

PCCC gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính trong lĩnh vực PCCC. 

f) Chú trọng công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật PCCC, huy 

động các lực lượng, các nhà khoa học trong và ngoài ngành cùng tham gia, 

trong đó tập trung đầu tư xây dựng Viện nghiên cứu khoa học – công nghệ 

PCCC và Trung tâm kiểm định phương tiện PCCC;

g) Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế đa phương và song phương 

trong lĩnh vực PCCC, hội nhập tích cực vào các tổ chức PCCC Quốc tế 

và khu vực. Cử đoàn cán bộ tham gia hội thảo, hội nghị quốc tế về trao 

đổi, tiếp thu học hỏi kinh nghiệm PCCC để có điều kiện tiếp cận với hệ 

thống tiêu chuẩn, quy trình công nghệ PCCC hiện đại. Tiếp tục cử cán bộ, 

chiến sỹ đi đào tạo ngắn hạn, dài hạn tại các nước có công nghệ PCCC 

hiện đại; mở rộng quan hệ với Nhật, Pháp, Mỹ… để tiếp tục khai thác 

nguồn vốn ODA, các nguồn viện trợ của nước ngoài để tăng mức đầu tư 

trang bị phương tiện chữa cháy, cứu hộ, cứu nạn cho lực lượng Cảnh sát 

PCCC.

IV/ NHỮNG CHIẾN CÔNG CỦA LỰC LƯỢNG CẢNH SÁT PCCC
1.  Một số vụ chữa cháy điển hình lực lượng CSPCCC
a) Giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1986
* Chữa cháy trận địa tên lửa và pháo phòng không tại Đồng Giao, Ninh 

Bình ngày 8/6/1965 của đội PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình
Ngày 8/6/1965, máy bay Mỹ đánh phá trận địa tên lửa và pháo phòng 

không tại Đồng Giao, Ninh Bình. Đơn vị PCCC Ninh Bình đã xuất 01 xe 

và 10 cán bộ chiến sỹ do đồng chí Mai Huy Bổng chỉ huy dùng sức mạnh 

của lăng A cắt đứt luồng nhiên liệu tên lửa đang bị cháy để chuyển tên lửa 

ra ngoài. Phương pháp chữa cháy này đã mở ra chiến thuật chữa cháy tên 

lửa và đã được nhiều đơn vị PCCC áp dụng có hiệu quả. Với chiến công 

đó, Đơn vị PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình được tặng Huân 

chương Chiến công Hạng nhất và được Nhà nước phong tặng danh hiệu 

Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 01/01/1967.

* Chữa cháy tàu Alecxandra của Liên Xô chở hàng viện trợ ở cảng Hải 

Phòng
Tàu Alecxandra có trọng tải 12.000 tấn, mang quốc tịch Liên Xô cũ, neo 

đậu ở cảng Hải Phòng vào cuối tháng 7/1965. Chiều 5/8/1960, tàu 

Alecxandra chở khoảng 2.000 tấn phân đạm NO3NH4 bị bốc cháy tạo 

thành một cột khói màu da cam cao khoảng 50m. Sau đó, cột khói tỏa 

rộng trên bầu trời thành phố Hải Phòng và khu vực cảng. Ngay khi biết tin, 

Đội PCCC Sở Công an Hải Phòng đã điều động toàn bộ cán bộ chiến sỹ 

và phương tiện chữa cháy đến địa điểm tàu Alecxandra đang neo đậu. 

Tham gia cứu chữa còn có tàu cứu hộ của Liên Xô và bản thân tàu 

Alecxandra cũng tự cứu chữa bằng những thiết bị PCCC của mình. Nhờ 

tập trung lực lượng và phương tiện cứu chữa, 02giờ sau đám cháy được 

dập tắt. Trong trận chiến đấu này, hai đồng chí là Nguyễn Đình Thành và 

Đỗ Quang Thịnh, cán bộ chiến sỹ Phòng Cảnh sát PCCC Sở Công an Hải 

Phòng đã dũng cảm hy sinh.

* Chữa cháy kho xăng dầu Thượng Lý, Hải Phòng năm 1972
2h sáng ngày 10/4/1972, nhiều tốp máy bay đánh phá vào kho xăng 

Thượng Lý, Hải Phòng làm lửa bùng cháy dữ dội. Đội PCCC Sở Công an 

Hải Phòng đã điều động 03 xe chữa cháy và được sự hỗ trợ của một xe 

chữa cháy của Đội PCCC Ty Công an Hải Hưng để tập trung dập tắt từng 

bể xăng dầu dưới bom đạn máy bay Mỹ. Sau hai giờ vật lộn với khói lửa 

đạn bom, lửa tại toàn bộ kho xăng Thượng Lý đã được dập tắt. Đơn vị 

PCCC Sở Công an Hải Phòng đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu 

Đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân ngày 02/9/1973.

* Hai lần chữa cháy Tổng kho xăng dầu Đức Giang năm 1966 và 1972
   Lần thứ nhất: lúc 12h, ngày 29/6/1966, không quân Mỹ đánh phá vào 

Tổng kho xăng Đức Giang làm một số thiết bị vỡ và một số bể khác bị 

mảnh bom xuyên thủng. Xăng dầu tràn ra làm thành một đám cháy dự dội. 

Thành ủy và UBND thành phố Hà Nội chỉ thị phải bằng mọi biện pháp dập 

tắt đám cháy trong đêm, không để cháy sang ngày hôm sau. Phòng PCCC 

Sở Công an Hà Nội đã điều động 12 xe, Cục Cảnh sát PCCC huy động 

thêm 8 xe của Hà Bắc, Hà Tây, Hải Hưng và Trường Hạ sỹ quan Cảnh sát 

PCCC tham gia chữa cháy. Công tác chữa cháy ở đây chủ yếu sử dụng 

nước. Lực lượng chữa cháy dùng lăng A, B cắt các vòi xăng phun bị cháy, 

làm lạnh các bể đang cháy, bảo vệ chiến sỹ chữa cháy và chia cắt từng 

cụm dứt điểm, dùng dẻ, que gỗ nút các lỗ thủng trong điều kiện nóng rát, 

khói đen mù mịt. Đến 5h15phút ngày hôm sau, đám cháy lớn được dập tắt 

hoàn toàn, cứu được 12 bể xăng lớn và hàng ngàn phuy xăng với gần 25 

triệu lít xăng dầu. Sau trận chiếu đấu này, lực lượng Cảnh sát PCCC Thủ 

đô đã được Bác Hồ gửi thư khen ngợi, trong đó có 4 điều Người dạy đã 

trở thành kim chỉ nam cho hoạt động của lực lượng Cảnh sát PCCC, đó là:
1. Phải thường xuyên nâng cao cảnh giác, chớ chủ quan, tự mãn.
2. Phải thường xuyên thật sẵn sàng để nhanh chóng làm tròn nhiệm vụ bất 

kỳ trong tình hình nào, để bảo vệ tài sản của nhà nước và nhân dân.
3. Phải không ngừng học tập, nghiên cứu phát huy sáng kiến, tổng kết kinh 

nghiệm để tiến bộ hơn nữa trong việc PCCC.
4. Phải thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng dân phòng ngày 

càng tiến bộ để họ trở thành người giúp việc thật đắc lực cho các đồng 

chí.
    
   Lần thứ hai: Hồi 15h ngày 16/4/1972, nhiều tốp máy bay Mỹ đến đánh 

phá kho xăng dầu Đức Giang và kho kim khí hóa chất Đức Giang. Phòng 

PCCC Sở Công an Hà Nội đã tập trung toàn bộ lực lượng, phương tiện 

dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá Trưởng phòng Đinh Mười và Đại úy Phó 

Trưởng phòng Bùi Văn Hoàn. Bom bi của địch đánh trúng kho xăng làm 

nhiều bể bị nổ tung, xăng phun ra thành vòi lửa dài hàng trăm mét. Lực 

lượng Cảnh sát PCCC đã dùng lăng A để cắt ngọn lửa. Đến sáng ngày 

hôm sau, đám cháy cơ bản được dập tắt.

* Chiến đấu với giặc lửa trong 12 ngày đêm máy bay B52 đánh phá Hà Nội
Trong trận Điện Biên Phủ trên không ở Hà Nội, máy bay địch tập trung 

đánh phá khu vực điểm Đông Anh, ga Yên Viên. Đội PCCC Lộc Hà Sở 

Công an Hà Nội do đồng chí Đào Văn Phê là đội trưởng đã ngày đêm 

chữa cháy liên tục, không quản hy sinh gian khổ. Đang chữa cháy, máy 

bay địch đánh trúng đội hình làm hỏng 1 xe chữa cháy, nhưng lực lượng 

Cảnh sát PCCC đã dũng cảm chiến đấu cứu được nhiều xăng dầu và hàng 

hóa trong kho. Với những thành tích chiến đấu xuất sắc, đội PCCC Lộc 

Hà đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng 

Vũ trang Nhân dân ngày 2/9/1973.

* Vụ cháy lò vỉa 7 mỏ than Vàng Danh – Quảng Ninh     
Ngày 3/3/1985, xảy cháy Vỉa 7 mỏ than Vàng Danh, Quảng Ninh. Đây là 

đám cháy lớn, phức tạp, có nguy cơ cháy lan toàn bộ vỉa 7 và lan sang các 

vỉa khác; điểm cháy nằm sâu trong lòng đất, cách cửa lò 520-580m, cách 

mặt nước biển +260m.

Trước tình hình như vậy, Bộ Công an đã phối hợp với Bộ Điện than, 

UBND tỉnh Quảng Ninh tổ chức chữa cháy, huy động 48 xe các loại và 

222 người sử dụng hết 2.699m3 nước để chữa cháy.

Chiến thuật chữa cháy: Ban đầu đưa ra phương án đánh sập lò, chờ khi lửa 

tắt thì khôi phục lại, đánh giá phương án này không khả thi và hiệu quả 

thấp nên đã quyết định phương án dùng mặt nạ phòng độc, đưa lăng phun 

vào tiếp cận ngọn lửa để chữa cháy, đây là phương án tối ưu nhất, rẻ tiền 

nhất lại nhanh chóng khôi phục sản xuất. Cuộc chiến đấu diễn ra không 

ngừng, lực lượng PCCC đã phun nước trực tiếp vào vùng cháy, đào bới 

than ra để chữa cháy đồng thời kết hợp sáng kiến bịt kín các cửa hút gió từ 

ngoài vào lò, đưa nước từ cửa thượng lò dẫn nước xuống vùng cháy. Để 

có nước chữa cháy các lực lượng tham gia chữa cháy đã phải ngăn một 

con đập để đưa nước suối rồi dùng máy bơm công suất lớn cung cấp 

nước cho xe chữa cháy. Sau 10 ngày chiến đấu, 5h sáng ngày 13/3/1985 

đám cháy được dập tắt hoàn toàn. Để dành được chiến công này đã có rất 

nhiều chiến sỹ bị ngất (không có ai bị thương).

Hiệu quả chữa cháy: không phải đánh sập lò, rút ngắn thời gian khôi phục 

lò, đem lại hiệu quả kinh tế rất cao, cứu được những vỉa than có trữ lượng 

lớn và chất lượng tốt nhất của Việt Nam.

b) Giai đoạn từ năm 1986 đến nay
Bước vào thời kỳ đổi mới, lực lượng CSPCCC đã khắc phục tình trạng 

thiếu lực lượng, phương tiện và tổ chức tốt công tác thường trực sẵn sàng 

chiến đấu, kịp thời chữa cháy, chữa cháy có hiệu quả nên trung bình hàng 

năm số lượng tài sản mà lực lượng Cảnh sát PCCC cứu được trị giá từ 

2000 - 3000 tỷ đồng. Nhiều vụ chữa cháy được các cấp lãnh đạo, các cấp, 

các ngành và nhân dân đánh giá cao, điển hình như: Vụ chữa cháy các kho 

đạn ở Tuyên Quang, Vĩnh Phúc và Đà Nẵng; vụ chữa cháy tàu ở Cẩm Phả 

(Quảng Ninh); các vụ chữa cháy chợ Vinh (Nghệ An), chợ Sắt (Hải 

Phòng); vụ chữa cháy bệnh viện Chợ Rẫy (TP Hồ Chí Minh) đã bảo vệ an 

toàn cho khu nhà bệnh nhân; các vụ chữa cháy khu tập thể Bộ Thuỷ Lợi, 

phường Chương Dương (Hà Nội), xí nghiệp giầy da xuất khẩu Hiệp Hưng 

(TP Hồ Chí Minh), khu dân cư phường Lạc Đạo, thị xã Phan Thiết (Bình 

Thuận), khu dân cư ở TP Nha Trang (Khánh Hoà), công ty Visingpack ở 

TP Hồ Chí Minh; gần đây nhất là vụ chữa cháy rừng U Minh Thượng tỉnh 

Kiên Giang và U Minh Hạ tỉnh Cà Mau và chữa cháy cứu người bị nạn tại 

tòa nhà chung cư cao tầng JSC 34 Thanh Xuân, Hà Nội. Cụ thể:

* Đối mặt với giặc lửa ở rừng U Minh
Ngày 24.3.2002, xảy ra cháy tại Vườn Quốc gia U Minh Thượng, Kiên 

Giang. Điểm cháy từ khu rừng có lớp than bùn và thực bì dày 1 đến 1,5m, 

phía trên là chàm và cây dây leo khô kiệt do nắng nóng nên lửa cháy cả 

trên mặt đất và dưới lòng đất. Lửa ngày càng cháy dữ dội, vượt ra ngoài 

tầm kiểm soát của địa phương nên đã phải yêu cầu Trung ương chi viện. 

Ngay sau khi nhận được sự chỉ đạo của Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát 

về việc huy động lực lượng, phương tiện để chữa cháy rừng, ngày 

2.4.2002, đoàn công tác của Cục Cảnh sát PCCC (do đồng chí Đại tá Bùi 

Văn Ngần, Cục trưởng dẫn đầu) đã lập tức đến U Minh Thượng để tham 

gia chỉ huy chữa cháy (Ban chỉ đạo chữa cháy rừng U Minh do lãnh đạo 

UBND tỉnh Kiên Giang làm trưởng ban). 

Tham gia chữa cháy có 150 cán bộ chiến sĩ chữa cháy và 200 cán bộ 

chiến sĩ của Cảnh sát cơ động, 50 máy bơm chữa cháy, 18 xe chữa cháy 

các loại và nhiều trang thiết bị chữa cháy khác của Công an 15 tỉnh từ 

Đồng Nai đến miền Tây Nam bộ.       

Trước tình hình đám cháy lớn, phức tạp trong điều kiện thiếu phương tiện, 

không có nước để chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC đã nghiên cứu ra 

phương án chữa cháy táo bạo và khoa học là đánh thẳng vào mặt lửa bằng 

cách tổ chức đào kênh từ ngoài xuyên vào đám cháy vừa để ngăn cháy, 

vừa để dẫn nước vào phục vụ chữa cháy, lực lượng Cảnh sát PCCC triển 

khai lực lượng và phương tiện dập cháy đến đâu, lực lượng quân đội và 

Cảnh sát cơ động chặt cây phát quang tạo hành lang an toàn đến đó.

Đến 14 giờ ngày 18.4.2002, đám cháy tại rừng U Minh Thượng đã được 

khống chế, không còn khả năng lan ra các khu vực khác.
Trong những ngày chữa cháy tại rừng U Minh, nguyên thủ tướng Phan Văn 

Khải đã trực tiếp đến kiểm tra công tác chữa cháy rừng, động viên, khen 

ngợi các lực lượng chữa cháy trong đó có Cảnh sát PCCC đã mưu trí, 

dũng cảm, cứu được nhiều ha rừng. Đồng chí Trương Quốc Tuấn, Chủ 

tịch UBND tỉnh Kiên Giang khẳng định: “Nếu không có lực lượng Cảnh 

sát PCCC thì khó mà giữ được một diện tích rừng lớn như vậy. Lúc đầu 

chúng tôi cũng còn băn khoăn về phương án đánh thẳng mặt lửa mà các 

anh trong ban lãnh đạo Cục Cảnh sát PCCC đưa ra, nhưng đến bây giờ thì 

thấy rất có hiệu quả”
Kết quả, đã cứu được 5.593 ha rừng tràm của vườn quốc gia U Minh 

Thượng (trong đó có 1.000 ha rừng nguyên sinh), hơn 13.000 ha rừng đệm 

thuộc rừng U Minh Thượng, tỉnh Kiên Giang và 36.771 ha rừng U Minh 

Hạ, tỉnh Cà Mau, trong đó có khu rừng đặc dụng Vồ Dơi với diện tích 

4.000 ha.

* Vụ cháy tại chung cư JSC 34, đường Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà 

Nội:
Vào hồi 18 giờ 08 phút ngày 10/3/2010 xảy ra cháy ống thu rác của đơn 

nguyên A tòa nhà  JSC 34, ngõ 164, đường Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, 

Hà Nội. Chung cư  JSC 34 thuộc Công ty Cổ phần đầu tư và xây dựng số 

34. Nhà đơn nguyên  A có 18 tầng, 1 tầng hầm, diện tích mặt bằng sàn 

467m2/sàn, gồm 180 căn hộ.

Ngay sau khi nhận được tin báo cháy, PC66 Hà Nội đã điều động 08 xe 

(gồm 02 xe thang, 04 xe chữa cháy, 02 xe téc) cùng các đơn vị Cảnh sát 

Giao thông, Công an sở tại, Ban chỉ huy quân sự quận Thanh Xuân, Trung 

tâm y tế 115, Ban quản lý tòa nhà... tổ chức chữa cháy, cứu người bị nạn.

Trong quá trình tổ chức cứu chữa, lực lượng Cảnh sát PCCC Hà Nội đã 

sử dụng 02 xe thang để cứu người tại các tầng của tòa nhà và cõng, dìu, 

đưa được 44 người bị nạn (gồm 2 người nước ngoài, 42 người là người già, 

phụ nữ và trẻ em) không có khả năng tự thoát ra nơi an toàn, đồng thời tổ 

chức hướng dẫn cho hầu hết những người còn lại trong tòa nhà thoát ra 

khu vực an toàn. Sau 30 phút nỗ lực cứu chữa, đám cháy đã được dập tắt 

hoàn toàn. Tuy nhiên, đám cháy đã làm 02 người chết do ngạt khói là chị 

Vương Phương Lan (SN 1967) và con trai Lưu Gia Minh (sinh năm 2000) 

ở tại phòng số 1810. Nguyên nhân cháy là do người dân của khu chung cư 

vứt than tổ ong đang cháy dở vào đường ống xả rác của tòa nhà gây ra 

cháy.

Nhờ thành tích xuất sắc trong chữa cháy và cứu người bị nạn trong đám 

cháy, UBND thành phố Hà Nội đã tặng Bằng khen cho 3 tập thể gồm Đội 

Cảnh sát PCCC Ba Đình, Từ Liêm và Hà Đông. Giám đốc Công an thành 

phố Hà Nội tặng Giấy khen cho 17 cá nhân của Phòng Cảnh sát PCCC Hà 

Nội. 

2. Phần thưởng cao quý của lực lượng Cảnh sát PCCC
a) 15 đơn vị anh hùng lực lượng vũ trang
- Đội PCCC Hoa Lư, Ty Công an Ninh Bình (01/01/1967)
- Đội PCCC Hồng Gai, Ty Công an Quảng Ninh (01/01/1967)
- Đội PCCC Lộc Hà, Sở Công an Hà Nội (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Ty Công an Quảng Bình (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Sở Công an TP Hải Phòng (02/9/1973)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Ty Công an Thanh Hóa (02/9/1973)
- Phòng Tổ chức công tác chữa cháy (nay là Phòng Phòng Công tác chữa 

cháy) – Cục Cảnh sát PCCC và CNCH (29/8/1985)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Nghệ An (03/8/1985)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hải Dương (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Cần Thơ (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hà Tĩnh (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Nam Định (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Hà Nam (22/7/1998)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Long An (29/8/2000)
- Phòng Cảnh sát PCCC, Công an tỉnh Thái Bình (01/9/2000)
b) Các phần thưởng cao quý khác
* Cục Cảnh sát PCCC và CNCH được Đảng và Nhà nước tặng thưởng:
- 01 Huân chương Hồ Chí Minh năm 2006
- 01 Huân chương chiến công Hạng Ba năm 2007
* Toàn lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH: 
- 01 Huân chương Quân công hạng Nhất năm 1981
- 01 Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 1996
- 01 Huân chương Hồ Chí Minh năm 2001.

Ngoài ra, các tập thể và cá nhân lực lượng Cảnh sát PCCC và CNCH đã 

được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý khác./.