Saturday 8 April 2017

BỘ THỦ HÁN MANG NGHĨA LÂM THỜI TRONG CHỮ NÔM - Lã Minh Hằng


TB

Khi nghiên cứu phân loại chữ Nôm, chúng ta bắt gặp những chữ thật khó quyết định nên xếp chúng vào tiểu loại nào: loại ghép Âm - Âm hay ghép Âm - Ý ? Về cấu tạo của loại chữ này, giới nghiên cứu Hán - Nôm lâu nay cũng chưa giành nhiều sự quan tâm. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ lần lượt nghiên cứu loại chữ vừa nói trong các từ và ngữ tiếng Việt.
1. Trong từ song tiết tiếng Việt:
Xét các ví dụ sau:
賋 帲 Rõ ràng
錃 忚 Rẻ rúng
笡 女难 Nợ nần
Trong 3 từ trên, các chữ rõ, rẻ, nợ là những chữ Nôm có cấu tạo Âm - Ý, các chữ còn lại: ràng, rúng, nần nên phân tích chúng như thế nào ?
Chữ Nôm 帲 ràng gồm 床 sàng biểu thị âm đọc và 火 hỏa là bộ phận biểu thị ý nghĩa (ngày ngay, chữ ràng được dùng láy lại; ràng ràng hay rành rành vẫn còn mang nghĩa sáng sủa, rõ nét, ký tự biểu thị nghĩa này được do ảnh hưởng của bộ phận mang nghĩa chính - chữ trong rõ ràng. Phép lặp lại ký tự biểu nghĩa như trên được dùng rất nhiều trong từ ghép đôi tiếng Việt
Chữ Nôm 忚 rúng gồm có 用 dụng biểu thị âm đọc và 礼 Lễ . Chữ lễ này nên coi là bộ phận biểu âm hay biểu nghĩa ?
- Trong chữ Nôm có thể dùng thanh mẫu l (Hán) để ghi thanh mẫu d (Việt) và Lễ lúc này có thể hiểu là bộ phận biểu thị âm thanh trong chữ rúng. Nếu quả vậy, thì chữ Nôm rúng sẽ có cấu tạo theo phương thức ghép Âm - Âm.
- Ngược lại, nếu coi 礼 Lễ là bộ phận biểu nghĩa, có nghĩa rúng là một yếu tố có nghĩa. Như vậy, rẻ rúng là một từ ghép hợp nghĩa trong đó rúng có nghĩa gần tương đương như rẻ, có điều rúng ngày nay đã bị mờ nghĩa nên chúng ta không nhận thấy được, giống như trường hợp xe cộ, tre pheo.
Cộ pheo tuy ngày nay đã bị mờ nghĩa. Nhưng, cứ liệu chữ Nôm đã chứng minh nó vẫn còn mang bộ thủ chỉ nghĩa rất rõ. Điều này không giống như trường hợp chữ rúng: Chữ Lễ không có nghĩa nào cho thấy một phạm trù nhỏ, ít... của chữ Rẻ rúng. Trường hợp chữ 女难 nần cũng là cứ liệu bổ sung cho trường hợp lưỡng khả này.
Ta có thể xem rúng được cấu tạo bởi rẻ viết tắt + chữ dụng và chữ Nôm nần được cấu tạo bởi chữ nợ viết tắt + chữ nan hay không ? Chúng tôi sẽ không có ý định làm phức tạp thêm những chữ Nôm vốn rất phức tạp này.
1.a. Vậy chữ Hán 礼 Lễ trong chữ rúng và 女 nữ trong chữ nần nên hiểu như thế nào cho đúng ?
- Hai chữ rúng nần không nên xếp vào dạng chữ Nôm có cấu tạo ghép Âm - Âm. Dạng ghép Âm - Âm là cách ghi phản ánh sự tồn tại của tổ hợp phụ âm đầu trong tiếng Việt cổ, nó có số lượng rất ít và thường dùng để ghi những từ Việt cổ.
- Trong từ ghép đôi tiếng Việt, hiện tượng lặp lại ký tự biểu nghĩa khá phổ biến. Có lẽ áp lực hệ thống này đã đẩy hai chữ rúng nần vào tiểu loại có cấu tạo ghép Âm - Ý, trong đó bộ phận biểu nghĩa là chữ Hán 礼 lễ và 女 nữ.
1.b. Chấp nhận 礼 Lễ và 女 nữ là bộ phận biểu nghĩa trong chữ Nôm rúng nần ta cũng thấy:
- Các chữ Hán lễ trong chữ rúng, nữ trong chữ nần hỏa trong chữ rạng đều là những bộ phận biểu nghĩa mang tính chất nhất thời, nó chỉ biểu nghĩa cho chữ đó khi nằm trong từ đó, trong văn cảnh đó, chúng tôi tạm gọi đó là loại bộ thủ Hán mang nghĩa lâm thời.
Bộ hỏa đã góp phần ít nhiều vào việch tạo chữ cho chữ Nôm rạng. Trái lại, chữ Hán lễ nữ gần như chỉ là những bộ phận biểu nghĩa hình thức. Bởi vậy khi nghiên cứu loại chữ Nôm có bộ phận biểu nghĩa lâm thời này, ta có thể phân biệt hai tiểu loại nhỏ sau:
1b.1. Lấy bộ phận biểu nghĩa của chữ trước để biểu nghĩa cho chữ sau: Nghĩa là chữ sau có mối quan hệ về ngữ nghĩa với chữ trước.
Ví dụ:
剗 梻 Lo lắng
裵 石尼 Nặng nề
賋 帲 Rõ ràng
1.b.2. Lấy bộ phận biểu âm của chữ trước để biểu nghĩa cho chữ sau. Như vậy, bộ phận biểu nghĩa của chữ sau mang tính chất biểu nghĩa hình thức.
Ví dụ:
絉 礻 雷 Lẻ loi
錃 忚 Rẻ rúng
笡 女难 Nợ nần
1.c. Tại sao lại dùng 礼 lễ để biểu nghĩa cho rúng và 女 nữ để biểu nghĩa cho nần?
Để trả lời câu hỏi này chúng tôi xin trích lời giới thiệu của U.M.DOXKOHOB - nhà ngôn ngữ học Liên xô cũ(2).
"Trong khi vay mượn văn tự con ngưòi thường không thể hiện sáng kiến sáng tạo của mình, anh ta bắt đầu ghi từ của tiếng mẹ đẻ tuân thủ theo các quy luật của văn tự vay mượn và chỉ trong một thời gian dài, theo một quá trình tiến hoá từ từ nhất, văn tự đó mới dần dần thỏa mãn những cái mà ngôn ngữ mới cần. Quá trình thích ứng như thế thường diễn ra không mang tính sáng tạo mà nặng nề máy móc và vô thức"(*).
Quả thật, việc tạo ra các chữ rúng nần như trên hoàn toàn không mang tính sáng tạo mà thật sự máy móc và vô thức. Người tạo chữ đã tuân theo các quy luật tạo chữ Hán - phép hình thanh để tạo ra các chữ rúng trong rẻ rúng, nần trong nợ nần bằng phương pháp ghép Âm - Ý. Các chữ đó đã nhập vào một với hệ thống các chữ lắng trong lo lắng, nề trong nặng nề ràng trong rõ ràng.
Chúng tôi cũng cần nhấn mạnh thêm rằng ở chữ Nôm không phải tất cả các trường hợp tạo chữ để không mang tính sáng tạo. Rất nhiều chữ đã thể hiện óc sáng tạo, sự tinh thông Hán văn để tạo ra những chữ của riêng Việt nam. Nhưng riêng đối với trường hợp rúng nần - trường hợp lấy bộ phận biểu âm của chữ thứ nhất để biểu thị ý nghĩa cho chữ thứ hai thì lời nhận xét của U.M. DOXKOHOB là có cơ sở.
2. Trong một ngữ đoạn, một câu hoàn chỉnh.
Trước đây, trong bài Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm(3) PTS. Nguyễn Tá Nhí đã nghiên cứu hiện tượng biểu nghĩa này trong cấu tạo từ ghép đôi Tiếng Việt. Chúng tôi muốn vượt ra khỏi biên giới của một từ, tìm hiểu hiện tượng biểu nghĩa đặc biệt này trong một ngữ đoạn, thậm chí trong một câu hoàn chỉnh. Chúng tôi xin được gọi các ký tự biểu nghĩa này là các ký tự biểu nghĩa lâm thời vì cho rằng ký tự đó đã tạo nên các chữ Nôm Âm - Ý, song ký tự biểu nghĩa trong chữ Nôm Âm - Ý này lại chỉ có giá trị trong ngữ đó, trong câu văn đó, ra ngoài văn cảnh đó chưa chắc đã có nghĩa như vậy.
2.a. Ảnh hưởng từ bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm đi trước:
2a.1. Trong chữ Nôm 土吝 rắn với nghĩa cứng, chắc, ta có chữ 吝 lận là bộ phận biểu âm. Lẽ ra bộ phận biểu nghĩa phải là một chữ có nghĩa rắn chắc, ví dụ như chữ cương chẳng hạn. Nhưng ở đây lại dùng bộ 土 thổ làm bộ phận biểu nghĩa. Sở dĩ có bộ phận biểu nghĩa này là do ngữ cảnh quy định mà lặp lại bộ thổ biểu nghĩa trong chữ Nôm 坦 đất đứng đằng trước. Ta có đất rắn cùng có cấu tạo Âm - Ý, trong đó cả hai cùng có bộ phận biểu nghĩa là bộ thổ. Ví dụ:
Đất rắn ( 坦 土吝 ) nặn chẳng nên nồi (9.52a) (**)
2.a.2. Chữ Nôm ắớ đựng gồm có chữ đăng biểu thị âm đọc và bộ mộc biểu thị nghĩa. Bộ mộc vốn là bộ phận biểu nghĩa trong chữ Nôm 木開 cơi đứng trước. Và khi đặt ra chữ đựng, ông cha ta đã áp dụng phương pháp cấu tạo chữ Hán - phép hình thanh để đặt ra 蟩 bằng cách lấy bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm đứng trước. Bộ mộc trong chữ Nôm đựng có tác dụng khu biệt nghĩa.
Ví dụ: Đàn bà sâu sắc như cơi đựng (木開 蟩) trầu (9.38a).
2.a.3. Để chỉ một đặc điểm của động vật có vú giống cái đang nuôi con nhỏ, ta có từ sề (từ ghép sồ sề), từ này chẳng gợi cho ta một nét đẹp nào cả. Vậy thì, ta có thể dùng bộ phận biểu nghĩa là chữ 疾 tật để chỉ một tật xấu hay dùng bộ nữ 女 chỉ giống cái để hướng cho ta đến đối tượng nhanh hơn. Song câu văn dưới lại dùng bộ vật 犭, bộ vật là bộ phận biểu nghĩa của chữ 妌 lợn đi trước. Có lẽ cứ liệu này đã nói rõ xuất phát điểm của từ sề là dùng để nói đến giống lợn cái, khi chúng đang trong thời kỳ nuôi con nhỏ. Ví dụ:
Chẳng nề chó ghẻ chẳng toan lợn sề (妌 犭仕 ) (7.111a).
2.a.4. Từ cằn có nghĩa: chỉ đất trồng trọt không có hoặc hết mất chất mầu mỡ, cũng có khi để chỉ cây cối thiếu chất dinh dưỡng không đủ sức lớn, sức phát triển. Trong ví dụ sau, chữ cằn được viết 蠞 : Người khi xuân cỗi liễu khi thu cằn (8.13a).
Từ cằn gồm có chữ Hán cần biểu thị âm đọc và bộ mộc biểu nghĩa. Dùng bộ mộc ở đây do ảnh hưởng ngữ cảnh, đồng thời cũng là lặp lại bộ mộc trong chứ cỗi đi trước. Rõ ràng bộ mộc ở đây có tác dụng phân biệt nghĩa là cây cằn chứ không phải đất cằn.
2.a.5. Cũng vậy, chữ Nôm rình 裎 gồm có chữ Hán 呈 trình biểu âm và bộ thị 礻 biểu nghĩa. Bộ thị ở đây được dùng lặp lại của bộ thị trong chữ Nôm dòm phía trước.
"Rày dòm nhà Bắc nay rình nhà Nam (7.117b)
Vì như ta đã biết, rình còn có thể dùng 擪. Ví dụ: rình mò
2a.6. Đã, sẽ, đang là nhóm phó từ biểu thị ý nghĩa thời gian trong tiếng Việt. Như ta biết, phó từ là từ loại không có ý nghĩa từ vựng chân thực, chúng chỉ bổ sung cho động từ, tính từ một ý nghĩa ngữ pháp nào đấy. Bởi vậy, cũng khó có thể dùng một bộ thủ Hán nào để biểu nghĩa cho nó. Ấy vậy mà chữ Nôm 冺 sẽ lại được cấu tạo theo phương pháp ghép Âm - Ý. Bộ khẩu ở đây chỉ mang tính chất là bộ thủ biểu nghĩa hình thức(***).
Hương rằng: Dạy sẽ (凧 冺) nhường hay (8.12b).
2.a.7. Ổi là một loài cây có quả ăn được, ta có thể dùng ơẩ ôi biểu âm, kết hợp với bộ mộc biểu thị giống loài thực vật. Nhưng trong Quốc âm thi tập, tác giả lại dùng bộ nữ 女 thay cho việc dùng bộ mộc.
世 事 得 奴 女畏 節 斎
Thế sự người no ổi tiết bẩy.
Đây là hiện tượng dùng lặp lại bộ nữ 女 trong chữ Nôm no (Hán đọc nô) đứng trước. Có điều sự lặp lại ký tự biểu nghĩa này không giống với các ví dụ đã trình bày ở trên. Ta có thể thấy rõ điều này qua so sánh sau:
妌 犭仕 lợn sề.
- Chữ thứ nhất - chữ Nôm 妌 lợn có cấu tạo Âm - Ý.
- Chữ thứ hai - Chữ Nôm 犭仕 sề lấy bộ thủ biểu nghĩa vốn có nghĩa chân thực trong chữ thứ nhất. Từ đây sẽ dẫn đến kết quả chữ thứ hai mang tính chất hạn định ngữ nghĩa cho chữ thứ nhất: là lợn sề chứ không phải là con vật khác.
奴 女畏 no ổi .
Chữ thứ nhất - Chữ Nôm 奴 no, là chữ Nôm mượn nguyên hình chữ Hán nhưng không mượn âm và nghĩa. Chữ thứ hai lấy bộ 女 nữ trong chữ thứ nhất để biểu nghĩa. Như vậy bộ nữ ở chữ thứ hai không có nghĩa gì trong chữ Nôm ổi cả, nó chỉ là bộ thủ biểu nghĩa hình thức. Loại này cũng giống như từ ghép đôi 腰月結 yêu ghét. Đến đây ta có thể phân loại chữ Nôm có bộ phận biểu nghĩa lâm thời như sau:

Nhóm Chữ thứ nhất Chữ thứ hai Ghi chú
Hình Loại Hình Loại
1 chữ Nôm AY chữ Nôm AY Mượn bộ thủ biểu nghĩa ở chữ thứ nhất để biểu nghĩa cho chữ thứ hai.
2 chữ Nôm chữ Nôm AY Mượn bộ phận biểu âm ở chữ thứ nhất để biểu nghĩa cho chữ thứ hai, nhưng chỉ là biểu nghĩa hình thức.
3 chữ Hán 女畏 chữ Nôm AY Bộ nữ không có giá trị ở chữ thứ nhất và chữ thứ hai. Nó mang tính chất biểu nghĩa hình thức ở chữ Nôm thứ hai.

2.b. Chịu sự chi phối của bộ thủ biểu nghĩa trong các chữ Nôm đứng sau.
Bộ thủ mang nghĩa lâm thời này chịu ảnh hưởng rất nhiều từ bộ thủ biểu nghĩa của chữ Nôm đi trước đó, song cũng có lúc nó lại chịu sự chi phối của bộ thủ, nghĩa trong các chữ Nôm đứng sau.
2.b.1. Chữ Nôm 足妙 dẻo gồm chữ 妙 diệu biểu thị âm đọc và bộ 足 túc biểu thị ý nghĩa. Bộ túc này được dùng do mối liên hệ với bộ túc trong chữ Nôm đi sau - chữ quỳ, nó có tác dụng phân biệt nghĩa là dẻo chân chứ không phải dẻo tay hay dẻo mồm.
Ví dụ: Dẻo quỳ 足妙 跪 bạch lạy tăng ông (10.3a)
2.b.2. Chữ Nôm 火覩 đỏ gồm chữ Hán 覩 đổ biểu thị âm đọc lẽ ra bộ phận biểu nghĩa phải là một chữ Hán có nghĩa đỏ. Ví dụ: chữ xích chẳng hạn. Ở đây tác giả lại dùng bộ hỏa để biểu nghĩa. Bộ hỏa này được dùng do ngữ cảnh quy định, do mối liên hệ với bộ thủ biểu nghĩa trong chữ Nôm lửa đứng sau.
Ví dụ: Đỏ lửa 火覩 帞 hâm trà một mụ hầu (6).
2.b.3. Chữ Nôm 衤馬 mớ gồm có chữ 馬 biểu thị âm đọc và bộ y 衤để biểu nghĩa. Bộ thủ biểu nghĩa này có được là do ngữ cảnh quy định, có tác dụng phân biệt từ đồng âm khác nghĩa, phân biệt mớ quần áo với mớ rau hay mớ cá.
"Người thì mớ 衤馬 bảy mớ ba,
Người thì áo rách như là áo tơ i (9.17b)
Nghiên cứu các bộ thủ mang nghĩa lâm thời này cũng giống như khi nghiên cứu hiện tượng mượn nghĩa trong chữ Nôm, nó buộc ta không thể xa rời một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu Từ vựng ngữ nghĩa, đó là phương pháp phân bố. Phương pháp này có tác dụng tích cực trong việc xác định giá trị ngữ nghĩa đích thực của một yếu tố khi chúng nằm trong một văn cảnh cụ thể. Khẳng định vai trò của ngữ cảnh đối với một yếu tố cụ thể trong đó, F. de. Saussure nói: "Giá trị của bất cứ một yếu tố nào cũng đều do những yếu tố ở xung quanh quy định".

CHÚ THÍCH
(*) Bản dịch của PTS. Phạm văn Khoái.
(**) Ký hiệu 9.52a trong hai ngoặc đơn chỉ số thứ tự và số trang của sách tham khảo ghi ở cuối bài.
(***) Về bộ "khẩu" còn khá nhiều vấn đề, chúng tôi xin trình bày rõ trong một dịp khác, nếu có điều kiện.

SÁCH THAM KHẢO
A. Sách tiếng Việt
1. Giáo tình ngôn ngữ học đại cương . Ferdinand. de. Saussure Nxb. KHXH, H. 1973.
2. Về sự phát triển của văn tự và các loại hình của nó. U. M. DOHKOHOB, Lịch sử chữ viết M. 1979
3. Bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm Nguyễn Tá Nhí, Tạp chí Hán Nôm, số 2/1987.
4. Ngữ pháp tiếng Việt Nguyễn Anh Quế Nxb. GD, H. 1996.
B. Sách Hán Nôm (lưu giữ tại Viện Hán Nôm).
5. Quốc âm thi tập Nv.5 (Viện Hán Nôm).
6. Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập AB.635.
7. Thiên Nam ngữ lục AB.478.
8. Hoa tiên nhuận chính VNb.72.
9. Lý hạng ca dao VNv.303.
10. Tây du truyện AB.81

BỘ PHẬN CHỈ NGHĨA GIẢ TRONG CHỮ NÔM - Nguyễn Tá Nhí

Thời gian gần đây, các nhà nghiên cứu đã thống nhất phân chia chữ Nôm thành hai loại: chữ đơn (mượn nguyên từ chữ Hán) và chữ có cấu tạo ghép (chữ Nôm tự tạo)(1). Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn trong chuyên luận của mình đã đưa ra tiêu chí phân biệt: Chữ đơn gồm những chữ vừa có mặt trong văn bản Hán, còn chữ Nôm tự tạo gồm những chữ chỉ thấy xuất hiện trong các văn bản Nôm(2).
Tiếp đến, các nhà nghiên cứu lại căn cứ vào thế đối lập trong phương thức cấu tạo của từng chữ mà phân chia thành nhiều tiểu loại. Nhìn chung các tiểu loại này đã khái quát hầu hết số chữ Nôm có trong các loại văn bản Nôm. Nói là hầu hết bởi vì còn một số chữ Nôm nữa chưa biết sắp xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp. Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cũng đã ghi nhận điều này: “có một số chữ quá đặc biệt như đĩ, cụt thì chúng tôi chưa đưa vào đây(3). Trong bài viết này chúng tôi xin đề cập đến một số chữ tồn tại khá phổ biến trong các loại văn bản Nôm, nhưng chưa thấy xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp như các chữ:
sửa 所 gần lùng 怰
Đối chiếu với các tiêu chí phân loại nói ở trên, thì thấy ba chữ này không thể xếp vào phạm vi chữ đơn được, bởi lẽ chúng chỉ có mặt trong các văn bản Nôm mà không thấy xuất hiện trong các văn bản Hán. Do vậy phải đưa chúng về loại chữ ghép tự tạo. Mô hình loại chữ ghép tự tạo mà giáo sư Nguyễn Tài Cẩn nêu ra gồm bốn tiểu loại:
D _ _ _ ) chữ Hán + dấu nháy
Đ _ _ _ ) âm + âm
E _ _ _ ) Nghĩa + Nghĩa
G _ _ _ ) Nghĩa + âm
Chúng ta hãy thử xét xem mấy chữ vừa nêu ra ở trên nên xếp vào tiểu loại nào cho thật thích hợp. Rõ ràng không thể xếp loại vào tiểu loại D, vì cả ba chữ đều không sử dụng dấu nháy. Cũng không thể xếp vào tiểu loại E, vì cả ba chữ đều có bộ phận chỉ âm là: Sở, cân, lộng. Chỉ còn có khả năng xếp vào tiểu loại Đ hoặc G. Xin lần lượt xét từng trường hợp.
1. 所 Sửa (sở + cự)
Nếu xếp vào tiểu loại Đ, nghĩa là quan niệm “cự” là ký hiệu ghi thành tố thứ nhất trong tổ hợp phụ âm đầu K (?) nào đó, mà Sở là ký hiệu ghi thành tố thứ hai trong tổ hợp phụ âm đó. Thế nhưng, trong tiếng Việt, sự tồn tại của tổ hợp phụ âm đầu KS vẫn chưa được chứng minh rõ ràng. Do vậy giả định này cũng chưa có cơ sở vững chắc.
Nếu xếp vào tiểu loại G. thì ký hiệu “cự” lại không liên quan gì đến nghĩa của từ sửa cả. Do vậy cũng không thỏa đáng.
2. gần (bối + cân)
Trong chữ gần, ký hiệu “cân” có thể coi là bộ phận viết tắt của chữ cận (xước + cân), cũng có thể xem là bộ phận ghi âm gần. Thế nhưng nếu xếp vào tiểu loại Đ, thì ký hiệu “bối” không có liên quan gì đến âm đọc gần cả, nên không thích hợp. Còn nếu xếp vào tiểu loại G. thì ký hiệu “bối” không thấy có gắn bó gì với nghĩa của từ gần, nên cũng không thích hợp.
3. 怰 lùng (xước + lộng)
Nếu xếp vào tiểu loại Đ, thì ký hiệu “xước” không tìm thấy có liên quan gì với âm lùng. Nếu xếp vào tiểu loại G, thì ký hiệu “xước” không thấy có liên quan gì với nghĩa của từ lùng, do vậy đều không thỏa đáng.
Vậy thì nên xếp các chữ sửa, gần, lùng này vào đâu?
Nhìn lại toàn bộ hệ thống mô hình cấu trúc chữ Nôm mà các nhà nghiên cứu đã nêu ra, chúng ta thấy các nhà nghiên cứu dường như chỉ dựa vào từng cá thể đơn lập để phân tích xét đoán, chưa thấy xét đến quan hệ của từng cá thể với các yếu tố khác. Chẳng hạn như quan hệ của một chữ, đối với các chữ khác trong một từ ghép hoặc trong cả một câu. Trong thực tế các văn bản Nôm, chúng ta vẫn bắt gặp những chữ Nôm được tạo ra không phải chỉ do riêng bản thân nó quy định, mà còn chịu sự chi phối của các chữ khác ở xung quanh. Chẳng hạn, trong một từ ghép, hai chữ dùng để ghi hai từ đơn có nghĩa gần nhau, thường chi phối nhau, chữ thứ nhất dùng bộ thủ chỉ nghĩa nào thì chữ thứ hai cũng dùng bộ thủ đó. Ví dụ:
1. Đau đớn: được ghi bằng hai chữ có bộ phận chỉ âm là đao đán 刀 旦 còn ở bộ phận chỉ nghĩa, khi thì cùng dùng bộ “bệnh”:

Nghĩa duyên càng gợi tơ sầu,
Nghĩ thân càng lại thêm đau đớn tình.
Hoa Tiên truyện
Khi thì lại cùng dùng bộ “tâm đứng”:
Phạm Tải đau đớn trăm đàng,
Cầm lấy tay nàng rên khóc thở than.
Phạm Tải Ngọc Hoa
Đau đớn là một động từ, chỉ cảm giác do tổn thương về cơ thể, hoặc tổn hại về tinh thần gây ra. Vì vậy sử dụng bộ “tâm đứng” hoặc bộ “bệnh” đều thích hợp.
2. Vẫy vùng: được ghi bằng hai chữ có bộ phận chỉ âm là vĩ phùng 尾 逢 còn bộ phận chỉ nghĩa khi thì cùng dùng bộ “thủ xóc”:

Khi cha đòi gót vẫy vùng,
Mắc vào lưới cá khôn hòng vượt qua.
Hương Sơn quan âm Kinh
Khi thì dùng bộ “thủy”:
Mấy lời cặn kẽ thủy chung,
Hóa cơn mưa gió vẫy vùng chỉn ghê.
Chàng Chuối tân truyện
Hồ Tây đua sức vẫy vùng
Nữ nhi chống với anh hùng được sao
Đại Nam quốc sử diễn ca
Vẫy vùng là một động tác phải sử dụng đến chân tay nên chữ Nôm dùng bộ “thủ” để ghi như ở trường hợp 1 là rất hợp lý. Nhưng đến trường hợp 2 và 3, lại thấy dùng bộ “thủy”, thoạt nhìn có cảm giác chưa ổn. Nhưng xem xét ý nghĩa của cả câu, thì chúng ta thấy phương thức cấu tạo này lại có thể lý giải được: ở trường hợp 2, động tác vẫy vùng thực hiện được nhờ vào cơn mưa gió. Chàng Chuối vốn quen thạo sông nước, nay gặp được cơn mưa gió thì hẳn sẽ thỏa sức vẫy vùng. Ở trường hợp 3, động tác vẫy vùng được thực hiện trên vùng hồ Tây mênh mang nước cả.
Phương pháp tạo chữ thay đổi bộ phận chỉ nghĩa tùy theo ngữ cảnh cụ thể có mặt tích cực là giúp cho người đọc dễ dàng nhận biết âm đọc và ý nghĩa cụ thể của từ, song nó cũng có mặt hạn chế là tạo ra nhiều dị thể của chữ Nôm. Từ đó lại dẫn đến việc tạo ra một số chữ Nôm có bộ phận chỉ nghĩa không phù hợp. Chúng tôi tạm coi bộ phận chỉ nghĩa không phù hợp với chữ này là bộ phận chỉ nghĩa giả. Kết quả khảo sát bước đầu cho thấy bộ phận chỉ nghĩa giả xảy ra trong những trường hợp sau:
1. Trong một từ ghép cố định, hai chữ ghi hai từ đơn, một chữ dùng lối chữ đơn (mượn Hán), một chữ dùng lối chữ Nôm tự tạo. Bản thân chữ Nôm vốn là nguyên hình chữ Hán, bộ phận chỉ nghĩa trong chữ Hán này không có liên quan gì đến chữ Nôm ghi từ ghép cố định đó, thế nhưng trong chữ tự tạo bộ phận chỉ nghĩa lại chịu sự chi phối của chữ đơn trên, sử dụng luôn bộ thủ của chữ đơn làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy tạo ra chữ Nôm có bộ phận chỉ nghĩa giả. Ví dụ:
- Yêu, ghét 腰 月結 :
Khiến thị quan nộp vật giá cái quý cái tiện để xem dân chưng thửa yêu ghét.
Lễ ký đại toàn tiết yếu diễn nghĩa
Yêu là chữ Hán ghi từ Hán Việt yêu chỉ phần eo lưng trong cơ thể con người, bộ “nhục” là bộ phận chỉ nghĩa. Ở đây mượn để ghi từ yêu trong từ ghép yêu ghét, mà bộ “nhục” thì không hề có liên quan gì đến khái niệm yêu ghét cả. Thế mà ở chữ ghét người viết lại dùng nó để làm bộ phận chỉ nghĩa trong chữ Nôm tự tạo ghét (nhục + kết).
Thấp thoáng 湿 淌
Lửa đâu thấp thoáng trong rèm
Khi đưa hương xạ khi đem khói tùng
Mai đình mộng ký
Từ thấp thoáng được Từ điển tiếng Việt giải thích là: “khi ẩn khi hiện một cách nhanh chóng”(4). Từ thấp ở đây được ghi bằng chữ Hán thấp, có bộ phận chỉ nghĩa là bộ “thủy” vốn để ghi từ Hán Việt thấp có nghĩa là ẩm ướt, không hề có liên quan gì đến nghĩa của từ thấp thoáng trong tiếng Việt. Đến khi ghi từ thoáng, người viết lại dùng ngay bộ phận chỉ nghĩa là bộ thủy, tạo ra chữ Nôm tự tạo thoáng (thủy + thượng).
Bộ bối trong chữ gần ghi từ ghép gần xa, bộ xước trong chữ lùng ghi từ ghép lạ lùng, và bộ cự trong chữ sửa ghi từ ghép sửa sang, cũng nên được xem là những bộ phận chỉ nghĩa giả trong chữ Nôm tự tạo (riêng chữ sửa có cấu tạo phức tạp hơn, chúng tôi sẽ bàn kỹ trong một dịp khác).
Đôi khi trong các từ ghép tự do, cũng thấy có hiện tượng dùng chữ Nôm tự tạo có bộ phận chỉ nghĩa giả. Ví dụ, chữ:
Vò (mịch + vu) 紆
Ruột tằm chín khúc vò tơ
Thương chàng nên nỗi tương tư đêm ngày
Ngọc Hoa cổ tích
Nhẹ nhàng càng nhắn nhe cho
Càng xui châu giã tơ vò càng thương
Hoa Tiên truyện
là động từ chỉ động tác thường được thực hiện bằng tay, do vậy chữ thường thấy dùng bộ “thủ” để chỉ nghĩa. Thế nhưng ở đây do tác động của chữ “tê”, đã tạo ra chữ Nôm tự tạo có bộ phận chỉ nghĩa là “Mịch”
- 犻 hái (thảo + hải)
Hái cúc ương sen hương bén áo
Tìm mai đạp tuyết nguyệt xâm khăn
Nguyễn Trãi Quốc âm thi tập
Hái là động từ chỉ động tác thực hiện bằng tay, nên chữ hái phải dùng bộ “thủ” làm bộ phận chỉ nghĩa mới thỏa đáng. Thế nhưng ở đây chịu tác động của chữ cúc (菊), nên chữ hái cũng có bộ phận chỉ nghĩa là thảo là không được phù hợp.
2. Trong một từ ghép cố định được ghi bằng hai chữ Nôm đều là loại chữ tự tạo, song do đặc điểm của lối viết chữ khối vuông, để đảm bảo thế hài hòa cân đối trong từng chữ, người viết đã viết đảo thứ tự thông thường, viết bộ phận chỉ âm trước, bộ phận chỉ nghĩa sau. Khi viết đến chữ thứ hai, đã dùng bộ phận chỉ âm của chữ thứ nhất làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy cũng tạo ra bộ phận chỉ nghĩa giả không phù hợp với chữ. Ví dụ:
- Chữ “loi” 雷 trong từ lẻ loi
Người về chân gấm no đôi
Tôi nằm chiếu rách lẻ loi một mình
Nam giao cổ Kim lý hạng ca dao tập chú
Chữ lễ 礼佳 (lễ + chích), có bộ phận chỉ âm lễ, nét móc viết sau vòng sang bên phải, nếu theo thứ tự thông thường viết bộ phận chỉ nghĩa chích trước, bộ phận chỉ âm lễ sau sẽ tạo ra một khoảng trống không cần thiết, làm cho chữ mất cân đối, do vậy người viết đã viết đảo thứ tự. Đến khi viết đến chữ loi (lễ + lôi), dùng bộ phận chỉ âm lôi, và bộ phận chỉ nghĩa là lễ, không phù hợp với chữ, thành ra có bộ phận chỉ nghĩa giả.
- Chữ nần 女难 (nữ + nan), nần trong từ nợ nần:
Tham giầu lấp chú biện tuần
Tuy rằng bóng bảy nợ nần chan chan.
Nam giao cổ kim lý hạng ca dao tập chú
hoặc viết là 嫀 (nữ + tần)
Như ai dầu có nợ nần
Ta thì thay giả người ăn cũng đành.
Hương Sơn quan thế âm chân kinh
Từ nợ được ghi bằng chữ Nôm tự tạo 笡 (nữ + trái) bộ phận chỉ âm nữ đặt trước phần chỉ nghĩa trái. Trường hợp này có lẽ do thói quen khi viết chữ Hán bộ nữ thường được dùng làm bộ phận chỉ nghĩa, rất ít khi làm bộ phận chỉ âm, do vậy nó hay được viết trước. Đến khi viết chữ Nôm tự tạo nần, người viết lại dùng ngay bộ nữ này làm bộ phận chỉ nghĩa, do vậy đã tạo ra bộ phận chỉ nghĩa giả.
Xem xét những trường hợp cấu tạo chữ Nôm trên đây, chúng tôi nghĩ rằng thừa nhận có bộ phận chỉ nghĩa giả trong một số chữ Nôm, sẽ có thể đóng góp vào việc xây dựng mô hình chữ Nôm cho đầy đủ và chính xác hơn, từ đó giúp cho việc giải đọc các văn bản Nôm một cách có hiệu quả hơn.
CHÚ THÍCH
(1) Xin tham khảo các tài liệu
- Lê Văn Quán, Nghiên cứu về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 1981.
- Trần Xuân Ngọc Lan, Sơ bộ khảo sát quyển Tự điển Chỉ nam Ngọc giải âm nghĩa, luận văn Phó tiến sĩ.
- Nguyễn Ngọc San, Mô hình cấu trúc chữ Nôm, luận văn Phó Tiến sĩ (b. tóm tắt).
- Nguyễn Tài Cẩn, Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, 1985.
(2) Một số vấn đề về chữ Nôm, sách đã dẫn, tr.49. Xét kỹ ra, tiêu chí này cần phải có thêm giải thích, bởi lẽ chúng ta bắt gặp khá nhiều chữ Nôm tự tạo có mặt trong văn bản Hán, ví dụ những chữ ghi tên đất, tên người trong các văn bia chữ Hán v.v...
(3) Một số vấn đề về chữ Nôm, Sách đã dẫn, tr.80. Để tiện cho việc trình bày giải thích, trong bài viết này chúng tôi nhất loạt gọi tên các thuật ngữ theo Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn đã sử dụng, như: chữ đơn, chữ tự tạo...
(4) Từ điển tiếng Việt, Văn Tân chủ biên, Nxb. KHXH, H. 1976, in lần thứ 2, tr.725./.

Wednesday 15 February 2017

Nguyên Bí thư Hà Nội: 'Hở bình thường không cấm, hở hang mới cấm' (Hoàng Phong - Tiền Phong)

Nguyên Bí thư Hà Nội: 'Hở bình thường không cấm, hở hang mới cấm'

TPO - "Như thế nào là phản cảm? Nếu lấy tiêu chí riêng của mỗi người thì phản cảm khác nhau nhưng tiêu chí của số đông là quá ngắn, quá lôi thôi, lếch thếch, hở hang”, Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị nói.
Ảnh minh họa Ảnh minh họa
Phát biểu tại cuộc họp vào chiều 14/2, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị đã có những chia sẻ về Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, người lao động trong các cơ quan của Hà Nội và ứng xử nơi công cộng.
Ông Nghị cho biết, theo những thông tin ông nắm được thì đa phần  mọi người đều đón nhận, hoan nghênh và mong muốn có bộ quy tắc này dù nó chưa thực sự hoàn hảo.
"Tôi chắc rằng, sự vật ngay từ đầu chẳng thể hoàn hảo. Thế nên quá trình thực hiện bộ quy tắc nếu có vấn đề phát sinh chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thiện bổ sung”, ông Nghị nói.
Nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội chia sẻ, rất nhiều người bày tỏ ý kiến với ông về quy tắc không được mặc quần áo hở hang, phản cảm nêu trong Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ công chức Hà Nội.  
"Họ cũng hỏi như thế nào là phản cảm? Nếu lấy tiêu chí riêng của mỗi người thì phản cảm khác nhau nhưng theo tiêu chí của số đông, phản cảm là quá ngắn, quá lôi thôi, lếch thếch, hở hang.
Khi tôi còn là Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thông tin, thảo luận vấn đề này ở Quốc hội, cũng có người hỏi: "Thế nào là hở hang?". Tôi nói hở bình thường người ta không cấm, còn hở hang mới cấm.
Chúng ta chẻ ra hở bao nhiêu phần trăm, hở ở chỗ nào nhưng ăn mặc là các vấn đề về phạm trù văn hóa không thể mô tả chính xác như toán học được...", ông Nghị nói.
(http://www.tienphong.vn/xa-hoi/nguyen-bi-thu-ha-noi-ho-binh-thuong-khong-cam-ho-hang-moi-cam-1121085.tpo)

Sunday 22 January 2017

Tại sao không thể gọi tiến sĩ là tiến sĩ?



Ông Trần Hữu Dũng viết bài “Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm”, kể chuyện
Khi mới từ nước ngoài trở về Việt Nam, không ít người có cảm giác lạ lẫm khi đọc báo thấy những trí thức khoa bảng luôn được kèm theo danh hiệu Giáo Sư (GS), Phó Giáo Sư (PGS), Tiến Sĩ (TS), và nhất là khi những danh hiệu này đi kèm nhau: GS TS, PGS TS.[1]  Thậm chí, nhiều bạn đã có tiến sĩ, là giáo sư ở nước ngoài, cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi “được” gọi như vậy trên các phương tiện truyển thông đại chúng, không liên hệ gì đến học thuật, ở Việt Nam.  Hơi ngượng, khá bối rối, nhưng rồi lại không dám yêu cầu báo chí không gọi là tiến sĩ vì như thế lại e bị hiểu lầm là lập dị, là “kênh kiệu ngược” (reverse snobbery)
Sau khi giảng giải bằng tiến sĩ là gì và để làm gì, Trần Hữu Dũng phân tích tự xưng và gọi nhau là GS TS thì có hại gì
Chuyện Trần Hữu Dũng bàn không có gì mới lạ. Nhưng Trần Hữu Hùng mà nói thì không ai buồn nghe trong khi bài viết của Trần Hữu Dũng lại được nhiều người tâm đắc và phổ biến rộng rãi. Trong trường hợp này, cái mác giáo sư, tiến sĩ có hại hay có lợi cho người viết và người đọc?

Cái buồn cười của các ông Việt kiều là mỗi khi các ông về nước nghe/thấy một chuyện gì lạ lẫm, các ông lại muốn đồng bào phải làm sao, nói sao, viết sao... cho giống Tây. Nhưng khi người Việt, trong đó có các ông, ra nước ngoài, nghe/thấy một chuyện gì lạ lùng, không ai nảy ra cái ý định bảo Tây phải nói/viết/làm sao cho lễ phép như người Việt. Người Việt xem phim Hàn lại thấy buồn cười chuyện mẹ đẻ gọi con trai là Park cơ trưởng, Kim chủ tịch..., nhưng không ai nghĩ mình phải làm theo Hàn Quốc và cũng chẳng ai đòi dân Hàn Quốc bớt lố lăng đi cho người Việt đỡ thấy lạ lẫm mỗi khi xem phim!
 

 Cá nhân tôi ủng hộ hạn chế sử dụng các danh hiệu có tính cách cao quý (giáo sư, tiến sĩ, kỹ sư, bác sĩ...) khi các danh hiệu đó có thể gây ra nhiều điều phiền toái. Người không có danh ghen với người có (giáo sư được trả nhuận bút cao hơn phó giáo sư, phó giáo sư hưởng nhuận bút cao hơn tiến sĩ...). Danh hiệu bị gọi sai, gọi thiếu... cũng là chuyện không hay (giáo sư bị gọi là phó giáo sư cũng có thể bực mình như bác/chú/anh... bị gọi là em).

Nhưng tôi phản đối việc gọt chân Việt cho vừa với giày Tây, giày Hàn. Cái xứ mình nhiều chuyện lạc hậu, vậy mình phải học theo thiên hạ. Nhưng biết theo ông tiến sĩ Tây học hay theo cô dâu Hàn Quốc? Có điều học gì thì học, không thể như Đông Thi thấy Tây Thi nhăn mặt cũng lo nhăn mặt theo cho giống.


Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm (Trần Hữu Dũng - Viet-Studies)

Thời Báo Kinh tế Sài Gòn
Xuân Đinh Dậu (2017)

(http://www.viet-studies.net/THDung/THDung_GSTS.htm)

Phiếm luận về danh xưng với học vị, học hàm

Trần Hữu Dũng

Khi mới từ nước ngoài trở về Việt Nam, không ít người có cảm giác lạ lẫm khi đọc báo thấy những trí thức khoa bảng luôn được kèm theo danh hiệu Giáo Sư (GS), Phó Giáo Sư (PGS), Tiến Sĩ (TS), và nhất là khi những danh hiệu này đi kèm nhau: GS TS, PGS TS.[1]  Thậm chí, nhiều bạn đã có tiến sĩ, là giáo sư ở nước ngoài, cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi “được” gọi như vậy trên các phương tiện truyển thông đại chúng, không liên hệ gì đến học thuật, ở Việt Nam.  Hơi ngượng, khá bối rối, nhưng rồi lại không dám yêu cầu báo chí không gọi là tiến sĩ vì như thế lại e bị hiểu lầm là lập dị, là “kênh kiệu ngược” (reverse snobbery)

Thực ra, so với vô số đại sự của quốc gia thì chuyện danh xưng này quả là “nhỏ như con thỏ”, nhưng nhân dịp Tết nhứt, xin có đôi dòng phiếm luận để giải khuây cho bạn đọc.

Bằng tiến sĩ chứng tỏ điều gì và để làm gì?[2]

Ai đã lấy PhD ở Mỹ đều biết rằng bằng cấp này chỉ là một cái vé vào cửa để được phỏng vấn khi đi xin việc ở các đại học, các viện nghiên cứu ở nước ngoài. Thế thôi. Theo nhà kinh tế nổi tiếng Michael Spence (Nobel 2001) thì bằng cấp (do một đại học có uy tín cấp) cốt yếu là một tờ giấy chứng nhận cho những người không có cách nào khác để chứng tỏ khả năng (trong đó có sự kiên trì) của mình.  Spence giải thích: Một người có thực tài, ai nhìn cũng thấy ngay, thì không cần bằng cấp khi đi xin việc!  Nói theo thuật ngữ kinh tế: Bằng cấp là một “tín hiệu cho thị trường”.

Tiến sĩ là một bằng cấp tối hậu (terminal degree) của hệ thống giáo dục hiện đại, nhưng nó chỉ là một (trong nhiều) chỉ dấu của trí thức. Và ngay khi là chỉ dấu như thế, nó cũng không là chỉ đấu tột bực. Ở các nước có một nền học thuật lâu đời, bằng tiến sĩ chỉ là một tấm vé để bước chân vào ngưỡng cửa của cộng đồng nghiên cứu và giảng dạy bậc đại học. Nó không phải là “vinh quang” tối hậu của một sự nghiệp học thuật.  Uy tín của một nhà nghiên cứu, của một giáo sư tùy thuộc hoàn toàn vào những thành tựu của người ấy sau khi đã có tiến sĩ (Einstein, chẳng hạn, không cần ai gọi mình là GS TS!). Thậm chí, một nhà khoa học xuất chúng, dù không có bằng tiến sĩ vẫn được xã hội nễ trọng hơn những người có tiến sĩ, nếu người ấy có một sự nghiệp học thuật tầm vóc.

Đi đâu cũng tự xưng, hay đòi người khác gọi mình là Giáo Sư Tiến Sĩ (dù là giáo sư tiến sĩ thật, không phải dỏm), không chỉ là làm dáng, phô trương, nhưng còn cho mình một cảm giác (thường) sai lầm về những thành tụu thật sự của bản thân, rằng mình hiện đã đạt đến tột đỉnh của học thuật, và khó tránh khỏi sự tự mãn đầy kiêu căng. Không gì “phản trí thức” hơn phong thái ấy.

Tự xưng và gọi nhau là GS TS thì có hại gì?

Nhiều người sẽ bảo, dù các cơ quan truyền thông có tâng bốc các giáo sư tiến sĩ, không bao giờ quên kèm theo học vị học hàm khi viết tên họ, thì có hại gì ai? Sao không xem đó như phản ảnh sự kính trọng “kẻ sĩ” của văn hóa Việt Nam? Vâng, nhìn từ một góc cạnh nhỏ hẹp thì quả việc này là không đáng kể so với những vấn đề trọng đại của đất nước.  Tuy nhiên, nó có thể liên hệ đến những hiện tượng khác làm suy giảm chất lượng đòi sống của chúng ta. Chẳng hạn như:

Bằng cách tung hô danh xưng GS, PGS, TS... các cơ quan truyền thông vô tình đơn điệu hóa thang trí thức học thuật, và từ đó, đến giá trị xã hội.  Bởi, như đã nói, những học hàm, học vị này là chức vụ trong lãnh vực giáo dục, là một chỉ dấu của khả năng nghiên cứu.  Chúng không nhất thiết có hàm ý nào về giá trị toàn diện của con người (mà phần chính, hiển nhiên, là đạo đức).  Gắn kết học vị học hàm, mà không một đặc điểm nào khác, với danh tính một người là mặc nhiên đưa nó lên vị trí hàng đầu.  Nói thẳng ra, theo ý người viết bài này, chính “thói quen” này của giới truyền thông đã giúp duy trì nạn “sính bằng cấp” trong xã hội Việt Nam.

Nạn sính bằng cấp, từ đó, sẽ có hậu quả dễ hiểu đến chất lượng tiến sĩ: Khi mà sự ham muốn bằng cấp không thể được thỏa mãn vì khả năng học tập và nghiên cứu của “đương sự” là “có hạn” thì tất nhiên sẽ sinh ra những tiến sĩ dỏm, những luận văn không đáng được gọi là luận văn. Báo chí đừng gọi họ là tiến sĩ nữa thì chất lượng tiến sĩ sẽ khá lên, vì lúc ấy chỉ những người thật sự có năng lực, có trí tuệ, đam mê nghiên cứu, giảng dạy... mới bỏ công dùi mài kinh sách trong một chương trình tiến sĩ, loại bỏ những “phần tử” “sinh ra không phải để theo đuổi học thuật” (mà trong một xã hội bình thường là hoàn toàn bình thường, không có gì để mặc cảm), chạy chọt lấy "tiến sĩ' chỉ vì hám danh.  Gạn lọc những phần tử “không thích hợp” này thì chất lượng tiền sĩ đương nhiên sẽ khá lên!

“Giải pháp”

Báo chí vô tình cũng là tòng phạm trong hiện tượng này.  Vì thói quen, hay để “tâng bốc” đương sự, báo chí ít khi quên gọi một giáo sư tiến sĩ là GS/PGS TS.  Bởi vậy, tôi nghĩ, các giáo sư tiến sĩ khi được phòng vấn, hãy nói thẳng với phóng viên là không cần để là GS TS trước tên ông/bà. 

Song, phải nhìn nhận, đây là một tập quán khó thay đổi.  Nếu một cá nhân muốn như thế và yêu cầu người phỏng vấn mình làm như thế thì cũng chưa chắc nhà báo sẽ nghe theo, vì nhà báo cũng muốn được hãnh diện là họ phỏng vấn một vị “giáo sư, tiến sĩ” chứ không phải “thường dân”!

Vậy, có vài đề nghị:

(1) Nếu người ấy có hiện giữ một chức vụ khác (Bộ trưởng, Chủ tịch...) thì chỉ nên dùng những chức vụ hiện tại, không cần phải thêm là GS TS gì cả.

(2) GS, hoặc TS là đủ, không cần gọi cả hai (GS TS).  Ở các quốc gia có những danh hiệu này lâu đời, hầu hết giáo sư đều có tiến sĩ, gọi GS TS là thừa.  Nên để ý rằng tiến sĩ có thể không là giáo sư (chẳng hạn như những nhà khoa học làm việc trong các viện nghiên cứu)

(3) Chỉ tự xưng là giáo sư hay tiến sĩ trong những hoàn cảnh mà danh hiệu ấy chuyển tải một thông tin có ich cho người đọc/nghe, và nếu người đối thoại không biết thông tin ấy.[3]  Theo tôi, chỉ nên gọi giáo sư (hoặc tiến sĩ, không cần cả hai) trong khuôn viên đại học, viện nghiên cứu, hoặc trong các hội nghị, hội thảo khoa hoc.

Tôn vinh những người có đạo đức, thực tâm, thực tài là một điều xã hội nên làm.  Nhưng để tôn vinh những người xứng đáng, và với sự trân quý thật lòng, xã hội không nên dừng lại ở danh hiệu tiến sĩ mà phải chịu khó tìm biết xem người ấy có những công trình nghiên cứu, những đóng góp khoa học nào, dạy ở trường nào, bao nhiêu năm... và thể hiện sự nễ trọng (nếu thấy họ xứng đáng) bằng cách nghiêm túc lắng nghe ý kiến của họ, đọc những gì họ viết.   Dù rằng việc kiểm chứng ấy sẽ không dễ đối với đa số không quen thuộc với môi trường học thuật (nhưng lắm khi Google vài phút là biết ngay!), song đó cũng là một cách nâng cao kiến thức của mọi người.  Một trí thức đích thực sẽ vô cùng cảm kích khi đối thoại với một người quan tâm đến nghiên cứu của mình, được nghe những câu hỏi phản ảnh một sự hiểu biết về công việc và những thành tựu của trí thức ấy.  Đó là cách tốt nhất để tôn vinh “tiến sĩ”!

Trần Hữu Dũng
15/12/2016


 


[1] Nhiều quốc gia khác, như Nga, Đức, cũng có phong tục này, nhưng tôi không biết nhiều về bối cảnh xã hội và truyền thống lịch sử của họ nên chỉ xin nói về trường hợp Việt Nam.  Đèn nhà ai nấy sáng!
[2] Xin nói rõ, đây là nói về bằng tiến sĩ “thật”.  Dường như vấn nạn tiến sĩ dỏm, tiến sĩ kém chất lượng, cũng rất trầm trọng ở Việt Nam, nhưng đó là một vấn đề khác.
[3] Ví dụ,  nếu trên máy bay có một hành khách ngả bệnh, và nếu bạn là bác sĩ, thì bạn có quyền (đúng ra là bổn phận!) hô lớn: Tôi là bác sĩ!  Nhưng bạn không cần phô trương học hàm học vị của bạn với người bán cà phê chẳng hạn!

Saturday 21 January 2017

Bán nguyên âm là gì?




Âm lâm. Chữ là chữ. Trẻ con bên Tây Úc học phân biệt nguyên âm và bán nguyên âm như sau:



 Các nhà ngữ học có sợ không?

Ông bà ta có câu Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe. Nhưng dường như với một số người, muốn tìm được một cái cột để mà dựa cũng là chuyện vượt quá giới hạn của năng lực.

Thursday 19 January 2017

Mỗi khi chửi tục người Việt phải cúi đầu bao nhiêu lần?




Sách Tiếng Việt Đơn Giản (2013) của trường Việt Ngữ Tây Úc mô tả thanh điệu trong tiếng Việt như sau:




Theo cách mô tả này, tất cả những ai chửi đ.m. đầu phải cúi gầm (sic) xuống hai lần. Nếu chửi con c., chmột lần lđủ. Nhưng nếu khen vợ đẹp, đầu lại phải cúi hai lần!

Tác giả khoe sách được meritus professor Bửu Khải hướng dẫn, nhưng ông giáo sư này không chđược cho học trò của mình biết gầm vgằm khác nhau thế nào.